Hãy tìm thì sẽ gặp

16/09/2025

Bởi Lý Mẫn, Trung Quốc

Con gái tôi sinh ra đã mắc bệnh động kinh. Tôi và chồng chạy chữa khắp nơi, dùng đủ mọi cách nhưng bệnh tình của con vẫn không thuyên giảm. Khi đang đau khổ và cùng đường, tôi được rao truyền phúc âm và bắt đầu tin Đức Chúa Jêsus. Không lâu sau, bệnh của con gái tôi có chuyển biến tốt, thế là chồng tôi và mẹ chồng cũng bắt đầu tin Chúa. Sau đó, chồng tôi trở thành người giảng đạo, còn tôi thì tiếp đãi các đồng sự nhóm họp tại nhà mình.

Năm 1997, một số người tin “Tia chớp phương Đông” đến nhà, làm chứng với hai vợ chồng tôi rằng Đức Chúa Jêsus đã trở lại, Ngài trở nên xác thịt để làm một công tác mới, và danh Ngài là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Tôi thầm nghĩ: “Sao có thể như vậy được chứ? Kinh Thánh có chép: ‘Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu’ (Công Vụ Các Sứ đồ 4:12). ‘Ðức Chúa Jêsus Christ hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi’ (Hê-bơ-rơ 13:8). Danh của Đức Chúa Jêsus vĩnh viễn bất biến, sao Ngài lại có thể được gọi là Đức Chúa Trời Toàn Năng, và còn làm công tác mới nữa chứ?”. Lúc đó, tôi không thể tiếp nhận, nên không muốn để ý đến những người này nữa. Sau một thời gian, họ lại đến rao truyền phúc âm cho chúng tôi, nhưng tôi căn bản là không muốn nghe, và nghĩ bụng: “Kinh Thánh đã nói rõ ràng rằng danh của Đức Chúa Jêsus vĩnh viễn bất biến, vậy mà các anh chị lại nói Chúa đã đến và được gọi là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Điều này không phù hợp với Kinh Thánh, nên cho dù các anh chị nói thế nào, tôi cũng sẽ không tiếp nhận!”. Chồng tôi cũng không nghe họ nói và không tiếp nhận.

Năm 2002, có một lần chồng tôi ra ngoài để rao truyền. Khi về đến nhà, anh ấy nói với vẻ mặt phấn khởi: “Anh cho em hay một tin tốt lành. Đức Chúa Jêsus mà chúng ta hằng mong đợi đã trở lại rồi! Đức Chúa Trời Toàn Năng mà ‘Tia chớp phương Đông’ làm chứng chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm! Kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Đức Chúa Trời được chia thành ba bước: Bước thứ nhất là công tác trong Thời đại Luật pháp, khi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban hành luật pháp để dẫn dắt con người trong cuộc sống trên mặt đất; Bước thứ hai là công tác trong Thời đại Ân điển, khi mà Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá để cứu chuộc nhân loại; Bước thứ ba là công tác trong Thời đại Vương quốc, khi mà Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ rất nhiều lẽ thật, làm công tác phán xét và hành phạt, nhằm giải quyết bản tính tội lỗi của con người, hoàn toàn làm tinh sạch và cứu rỗi con người, rồi cuối cùng là đưa con người vào đích đến tốt đẹp. Ba bước công tác này là công tác cứu rỗi trọn vẹn của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại, và thiếu một bước cũng không được…”. Lúc đó, chồng tôi đã nói rất nhiều điều với tôi, nhưng tôi cảm thấy những điều này thật khó mà tưởng tượng nổi. Tôi nghĩ thầm: “Sao anh lại có thể tiếp nhận ‘Tia chớp phương Đông’ chứ? Anh đã rao truyền bao nhiêu năm nay rồi, sao lại có thể bị họ mê hoặc chứ? Chúng ta suốt ngày đọc Kinh Thánh cơ mà. Trong Sách Ga-la-ti 1:6-7 chép rằng: ‘Tôi lấy làm lạ cho anh em đã vội bỏ Ðấng gọi anh em bởi ơn Ðức Chúa Jêsus Christ, đặng theo tin lành khác. Thật chẳng phải có tin lành khác, nhưng có mấy kẻ làm rối trí anh em, và muốn đánh đổ Tin Lành của Ðấng Christ’. Trong Sách Hê-bơ-rơ 13:8 cũng có chép: ‘Ðức Chúa Jêsus Christ hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi’. Những câu Kinh Thánh này rõ ràng nói rằng danh của Đức Chúa Jêsus không bao giờ thay đổi. Nhưng người tin ‘Tia chớp phương Đông’ lại nói rằng danh của Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Đây chẳng phải là sửa đổi danh của Đức Chúa Trời sao? Đây chẳng phải là bóp méo phúc âm của Đấng Christ sao? Sao anh lại có thể tin điều này chứ? Chúng ta tin Chúa thì bất kỳ lúc nào cũng phải giữ vững danh của Ngài. Danh của Chúa là bất biến!”. Tôi biết chồng mình rất am hiểu Kinh Thánh và còn giỏi giảng đạo, nên tôi không thể tranh luận lại anh ấy, hơn nữa, chỉ cần là việc anh ấy đã xác định là tin, thì không ai có thể thay đổi được. Thế nên tôi cũng không nói gì thêm, nghĩ bụng: “Dù anh có nói thế nào đi nữa thì em cũng không tiếp nhận! Đức Chúa Jêsus đã ban cho chúng ta biết bao ân điển, em tuyệt đối không thể phản bội Ngài. Cho dù phải cắt đứt quan hệ vợ chồng, em cũng phải đi theo Chúa đến cùng!”. Tôi nói với chồng: “Nếu anh tiếp tục rao truyền về Đức Chúa Jêsus, thì em sẽ nghe anh nói, và chúng ta vẫn là một gia đình. Nhưng nếu anh rao truyền về ‘Tia chớp phương Đông’, thì sau này, anh đi con đường sáng lạng của anh, em đi con đường gian nan của em, hai ta nước sông không phạm nước giếng”. Chồng tôi thấy tôi cố chấp không chịu nghe, đành lắc đầu bất lực, và không nói gì thêm.

Sau đó, chồng tôi đi rao truyền phúc âm cho những người trong hội thánh của chúng tôi. Thật không ngờ, người đồng sự thân thiết nhất với anh ấy là anh Phùng đã đuổi anh ấy ra ngoài. Sau đó, anh Phùng và những người khác bắt đầu phong tỏa các điểm nhóm họp, không cho các tín đồ nghe những gì chồng tôi nói. Bọn họ còn nói với tôi: “Chồng chị đã tiếp nhận ‘Tia chớp phương Đông’ rồi, chị đừng nghe theo anh ấy. Anh ấy đã sai lầm trong đức tin rồi!”. Tôi nói: “Tôi vẫn chưa tiếp nhận, chỉ có điều, một số lời anh ấy nói nghe cũng phù hợp với Kinh Thánh”. Chỉ vì tôi nói câu này mà họ đề phòng luôn cả tôi, còn bàn tán sau lưng tôi: “Chồng cô ta đã tin Đức Chúa Trời Toàn Năng rồi, chúng ta tuyệt đối không được tiếp xúc gì với cô ta! Thời gian lâu dần thì ai mà không bị ảnh hưởng chứ, cô ta chắc chắn cũng sẽ tiếp nhận thôi!”. Nghe những lời này, tôi cảm thấy rất ấm ức. Dù tôi có giải thích thế nào, thậm chí còn thề rằng mình chưa từng tiếp nhận ‘Tia chớp phương Đông’, họ đều không tin. Chỉ cần tôi đến điểm nhóm họp là sắc mặt của họ lập tức thay đổi. Họ đề phòng tôi, sợ tôi mê hoặc tín đồ, và chỉ mong tôi tuyệt đối không xuất hiện ở các buổi nhóm họp nữa. Bình thường, họ cũng trốn tránh tôi như trốn dịch, và không dám nói chuyện với tôi. Tôi cảm thấy vô cùng đau khổ, và oán giận chồng, cảm thấy việc mình bị các anh chị em vứt bỏ đều là họa do chồng mình gây ra. Thời gian đó, tôi cảm thấy rất buồn và ức chế, nên đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, các anh chị em đều vứt bỏ con, con cảm thấy rất đau khổ. Con không biết tâm ý của Ngài là gì nữa”. Để chứng minh mình chưa tiếp nhận “Tia chớp phương Đông”, khi một chị em tiếp đãi nhóm họp bị bệnh phải nhập viện, tôi cố tình mua quà rồi đến thăm chị ấy, muốn cho chị ấy thấy thành ý của tôi. Nhưng sau khi xuất viện, chị ấy vẫn tiếp tục như trước, không thèm để ý đến tôi. Thế nên sau đó, tôi không tham gia nhóm họp nữa, chỉ ở nhà cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Chồng tôi thấy tôi buồn như vậy, lại lần nữa làm chứng với tôi về công tác mới của Đức Chúa Trời. Tôi vô cùng tức giận và trách cứ anh ấy: “Nếu anh không tiếp nhận ‘Tia chớp phương Đông’, thì hội thánh có thể không cần đến em sao? Mọi người có thể vứt bỏ em sao? Cho dù họ không cho em nhóm họp, thì em cũng không tin ‘Tia chớp phương Đông’ như anh đâu! Em phải giữ vững danh của Chúa, tuyệt đối sẽ không phủ nhận Đấng Christ là Chúa của em!”. Thấy tôi có thái độ không tốt, chồng tôi vẫn không tức giận, mà còn rất lo lắng và buồn rầu. Sau đó, anh ấy dẫn theo hai anh em đến để thông công với tôi. Một người anh em chân thành nói: “Chị à, Đức Chúa Jêsus thực sự đã trở lại rồi, Ngài đã bày tỏ hàng triệu lời. Những lời này đều là lẽ thật. Những nghi hoặc của chị đều có thể được giải đáp trong lời Đức Chúa Trời. Chị nghe thử thì sẽ biết ngay thôi”. Lúc đó, tôi chỉ quan tâm đến những việc đang làm, nên không muốn để ý đến họ. Hai anh em thấy tôi không chịu nghe, đành phải rời đi trong bất lực. Tôi thấy những người của “Tia chớp phương Đông” rất đàng hoàng, đứng đắn và còn có lòng yêu thương vô cùng lớn. Tôi lạnh nhạt với họ như vậy mà họ cũng không tức giận, còn rất kiên nhẫn thông công với tôi. Vừa nhìn là biết họ là những người thật lòng tin Đức Chúa Trời, nhưng sao họ lại có thể tin theo “Tia chớp phương Đông” chứ? Tôi nghĩ mãi vẫn không hiểu. Sau đó, chồng tôi đi nơi khác để rao truyền phúc âm. Trong thời gian đó, liên tục có người làm chứng với tôi về công tác mới của Đức Chúa Trời, nhưng tôi vẫn không chịu nghe. Chỉ cần có người đến là tôi sẽ khóa cửa, rồi trốn sang một bên. Họ thấy cửa bị khóa thì rời đi. Những tháng ngày đó, mỗi lần nghĩ đến việc bị người trong hội thánh hiểu lầm và vứt bỏ, tôi lại thấy vô cùng đau khổ. Không biết đã bao nhiêu lần, tôi vừa khóc vừa thổ lộ nỗi đau trong lòng của mình với Chúa. Có một lần, tôi chợt nghĩ: “Hội thánh không cho mình nhóm họp. Nhưng nếu mình có thể mang trở lại hội thánh những con chiên tốt mà ‘Tia chớp phương Đông’ đã cướp đi, vậy thì các anh chị em sẽ tin mình không phản bội Chúa”. Nghĩ đến đây, tôi thấy trong lòng bừng sáng, rồi lập tức cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Ngài là Đấng dò xét tận đáy lòng con người, Ngài biết con thật lòng với Ngài. Con chưa từng tiếp nhận ‘Tia chớp phương Đông’. Lạy Chúa, bây giờ hội thánh không cần con nữa, khiến con rất đau khổ. Con không cam lòng ngồi ở nhà, cam chịu oan ức và lạnh nhạt như vậy. Lạy Chúa, xin Ngài ban cho con sự khôn ngoan cùng sức mạnh, để con có thể tìm lại những con chiên tốt bị ‘Tia chớp phương Đông’ cướp đi, và đưa họ trở về dưới danh của Ngài. Lạy Chúa, xin Ngài hãy giúp con!”. Sau khi cầu nguyện, tôi quyết định chủ động tiếp xúc với những người của “Tia chớp phương Đông” để đối chất trực diện với họ, dùng Kinh Thánh để phản bác họ, và đưa con chiên của Đức Chúa Trời trở về. Vì vậy, mỗi ngày tôi đều dành rất nhiều thời gian để đọc Kinh Thánh.

Một hôm, khi đang nghiêm túc đọc thánh thư, tôi bỗng nhìn thấy trong phúc âm Lu-ca 17:24-25 có chép: “Vì như chớp nháng lòe từ dưới phương trời nầy đến dưới phương trời kia, thì Con người trong ngày Ngài cũng như vậy. Nhưng Ngài trước phải chịu đau đớn nhiều, và bị dòng dõi nầy bỏ ra”. Tôi bỗng giật mình. Sao hôm nay tôi đọc đoạn thánh thư này nhưng lại cảm thấy khác so với trước? Tôi nghiền ngẫm từng chữ: “Nhưng Ngài trước phải chịu đau đớn nhiều, và bị dòng dõi nầy bỏ ra”. Trước đây, tôi luôn cho rằng lời này là nói về Đức Chúa Jêsus, vì trong Thời đại Ân điển, Đức Chúa Trời đã nhập thể thành Đức Chúa Jêsus Christ, Ngài bị thế hệ đó vứt bỏ một lần, bị đóng đinh trên thập tự giá và chịu rất nhiều đau khổ. Vậy tại sao ở đây lại nói “và bị dòng dõi nầy bỏ ra” chứ? Ý của chữ “lại” này chẳng phải là lại một lần nữa sao? Vậy lời này có còn nói về Đức Chúa Jêsus khi xưa nữa hay không? Càng nghiền ngẫm, tôi càng cảm thấy những gì người tin “Tia chớp phương Đông” nói là phù hợp với Kinh Thánh. Vào lúc này, tôi lại nghĩ đến lời chứng của người tin “Tia chớp phương Đông” rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Trời nhập thể lần thứ hai, rồi đến việc người trong mọi tôn giáo và giáo phái đều xét đoán, chống đối cũng như kết tội công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng, và “Tia chớp phương Đông” còn bị chính quyền của ĐCSTQ bắt bớ, bức hại nghiêm trọng nhất. Đức Chúa Trời Toàn Năng này chẳng phải là chịu rất nhiều đau khổ, và lại bị thế hệ này vứt bỏ sao? Chẳng lẽ câu “Nhưng Ngài trước phải chịu đau đớn nhiều, và bị dòng dõi nầy bỏ ra” là đang nói về Đức Chúa Trời Toàn Năng sao? Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm sao? Nghĩ đến đây, tôi giật hết cả mình, “Chết rồi! Chẳng lẽ mình thực sự đã chống đối Chúa rồi sao?”. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, “Không thể nào! Danh của Chúa là bất biến mà!”. Tôi lại tiếp tục nghĩ, “Chuyện này quá hệ trọng, mình không thể kết tội ‘Tia sáng phương Đông’ một cách mù quáng được. Mình thực sự không được chống đối Chúa”. Lúc này, tôi nghĩ đến lời của Chúa: “Bởi vì, hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ cửa thì được mở(Ma-thi-ơ 7:8). Tôi cảm thấy đôi mắt mình như bừng sáng, và nghĩ bụng, “Đúng rồi, mình phải tìm kiếm đã”.

Tôi nhớ chồng tôi có một quyển sách phúc âm nhỏ. Anh ấy nói, “Mọi nghi hoặc của em đều có thể được giải đáp trong quyển sách này”. Tôi sốt ruột đi tìm quyển sách đó, nhưng trước khi đọc nó, tôi đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Ngài khai sáng cho con, để con học được cách phân định nội dung của quyển sách này. Vóc giạc của con còn nhỏ bé, nên con sợ mình bị mê hoặc, nhưng con cũng sợ chống đối Ngài nữa. Lạy Chúa, hôm nay con sẽ đọc quyển sách này, xin Ngài hãy bảo vệ con”. Sau khi cầu nguyện, tôi mở sách ra đọc. Bên trong quả thực có những điều mà tôi muốn hỏi. Câu hỏi đầu tiên liên quan đến danh của Đức Chúa Trời. Tôi thấy trong sách viết: “Kinh Thánh chép rằng: ‘Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu’ (Công Vụ Các Sứ đồ 4:12). Điều này hoàn toàn chính xác, nhưng vẫn chưa thể chứng minh rằng danh của Đức Chúa Trời chỉ có thể là Jêsus, và mãi mãi không thay đổi. Chúng ta hẳn còn nhớ, trong Kinh Thánh Cựu Ước có chép lại lời phán của Đức Giê-hô-va như sau: ‘Ấy chính ta, chính ta là Ðức Giê-hô-va, ngoài ta không có cứu chúa nào khác(I-sai-a 43:11). ‘Giê-hô-va… là danh đời đời của ta, ấy sẽ là kỷ niệm của ta trải qua các đời(Xuất Hành 3:15). Và trong Tân Ước, Công vụ 4:12 lại chép rằng: ‘Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu’. Từ ‘Ngài’ ở đây ý muốn chỉ Jêsus. Vậy rốt cuộc danh duy nhất của Đức Chúa Trời là Đức Giê-hô-va hay là Jêsus? Hóa ra danh của Đức Chúa Trời ban đầu là Đức Giê-hô-va, nhưng sau đó là Jêsus. Vậy chẳng phải danh của Đức Chúa Trời đã thay đổi sao? Đến khi Đức Chúa Jêsus tái lâm trong thời kỳ sau rốt, danh của Đức Chúa Trời cũng phát sinh sự thay đổi tương tự như vậy. Chúng ta hãy xem lời tiên tri trong Sách Khải Huyền thì sẽ hiểu rõ. Sách Khải Huyền 3:12 chép rằng: ‘Kẻ nào thắng, ta sẽ cho làm trụ trong đền Ðức Chúa Trời ta, và người sẽ không ra khỏi đó nữa; ta lại sẽ lấy danh Ðức Chúa Trời ta, danh của thành Ðức Chúa Trời ta, là Giê-ru-sa-lem mới từ trên trời, bởi Ðức Chúa Trời ta mà xuống, cùng danh mới ta, mà viết trên người’. Ở đây rõ ràng đã tiên tri rằng khi tái lâm trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời sẽ có danh mới. Vậy danh mới này của Ngài còn có thể là ‘Jêsus’ nữa không? Nếu vẫn là ‘Jêsus’ thì sao gọi là danh mới được?”. Tôi cảm thấy những lời này rất hợp lý, và đều phù hợp với Kinh Thánh, chứ không hề xa rời Kinh Thánh. Tôi đã không ít lần đọc những câu Kinh thánh này rồi, mà sao lại không hiểu ra kia chứ? Đức Giê-hô-va là danh của Đức Chúa Trời trong Thời đại Luật pháp. Đức Chúa Jêsus là danh của Đức Chúa Trời trong Thời đại Ân điển. Đức Giê-hô-va và Đức Chúa Jêsus đều là danh của Đức Chúa Trời. Trong những thời đại khác nhau thì Ngài có danh khác nhau, vì thế danh của Ngài trong hai thời đại này không giống nhau. Trước đây, tôi tin rằng danh của Đức Chúa Trời là bất biến, nhưng điều này không phù hợp với sự thật. Sách Khải Huyền có nói rằng Chúa có “danh mới”. Xem ra “danh mới” này không phải là Đức Chúa Jêsus.

Trong phần giải đáp các câu hỏi, cuốn sách phúc âm nhỏ này còn trích dẫn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng: “Trong từng thời đại, Đức Chúa Trời làm công tác mới và được gọi bằng một danh mới; làm sao Ngài có thể làm cùng một công tác trong các thời đại khác nhau? Làm sao Ngài có thể bám lấy cái cũ? Danh Jêsus đã được dùng cho công tác cứu chuộc, vậy Ngài có còn được gọi bằng cùng một danh đó khi Ngài trở lại trong thời kỳ sau rốt không? Liệu Ngài có còn làm công tác cứu chuộc không? Tại sao Đức Giê-hô-va và Jêsus là một, nhưng Họ lại được gọi bằng những danh xưng khác nhau trong các thời đại khác nhau? Chẳng phải vì thời đại của công tác Họ làm khác nhau sao? Liệu chỉ một danh xưng có thể đại diện cho toàn bộ Đức Chúa Trời được không? Như vậy, Đức Chúa Trời phải được gọi bằng một danh xưng khác trong một thời đại khác, và Ngài phải dùng danh xưng để thay đổi thời đại và đại diện cho thời đại. Vì không một danh xưng nào có thể đại diện đầy đủ cho chính Đức Chúa Trời, và mỗi danh xưng chỉ có thể đại diện cho tâm tính của Đức Chúa Trời đặc trưng cho một thời đại nhất định; tất cả những gì nó cần làm là đại diện cho công tác của Ngài(Khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời (3), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “‘Giê-hô-va’ là danh mà Ta đã lấy trong thời gian Ta làm việc ở Y-sơ-ra-ên, và nó có nghĩa là Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên (dân được Đức Chúa Trời chọn), Đấng có thể thương xót con người, rủa sả con người, và hướng dẫn đời sống của con người; Đức Chúa Trời sở hữu quyền năng to lớn và đầy sự khôn ngoan. ‘Jêsus’ là Em-ma-nu-ên, nghĩa là của lễ chuộc tội đầy tình yêu thương, đầy lòng nhân từ và cứu chuộc con người. Ngài đã làm công tác của Thời đại Ân điển, Ngài đại diện cho Thời đại Ân điển, và chỉ có thể đại diện cho một phần công tác của kế hoạch quản lý. … Danh của Jêsus đã đến từ Thời đại Ân điển và đã ra đời vì công tác cứu chuộc trong Thời đại Ân điển. Danh Jêsus đã ra đời để cho phép những người trong Thời đại Ân điển được tái sinh và cứu rỗi, và là một danh đặc biệt cho sự cứu chuộc toàn thể nhân loại. Do đó, danh Jêsus đại diện cho công tác cứu chuộc, và biểu thị cho Thời đại Ân điển. Danh Giê-hô-va là một danh đặc biệt cho người dân Y-sơ-ra-ên đã sống dưới luật pháp. Trong từng thời đại và từng giai đoạn công tác, danh của Ta không phải là vô căn cứ, mà mang ý nghĩa đại diện: Mỗi danh đại diện cho một thời đại. ‘Giê-hô-va’ đại diện cho Thời đại Luật pháp, và là danh tôn kính mà dân Y-sơ-ra-ên gọi Đức Chúa Trời họ thờ phượng. ‘Jêsus’ đại diện cho Thời đại Ân điển, và là danh của Đức Chúa Trời của tất cả những ai đã được cứu chuộc trong Thời đại Ân điển. Nếu con người vẫn mong mỏi sự hiện đến của Jêsus Đấng Cứu Thế trong thời kỳ sau rốt, và vẫn mong chờ Ngài đến trong hình tượng mà Ngài đã mang lấy tại xứ Giu-đê, thì toàn bộ kế hoạch quản lý sáu nghìn năm hẳn sẽ dừng lại trong Thời đại Cứu chuộc, và không thể tiến triển xa thêm chút nào. Hơn thế nữa, thời kỳ sau rốt hẳn sẽ không bao giờ đến, và thời đại này hẳn sẽ không bao giờ kết thúc(Đấng Cứu Thế đã trở lại trên một “đám mây trắng”, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc xong những lời này, tôi đã hiểu được phần nào. Hóa ra công tác của Đức Chúa Trời vẫn luôn không ngừng tiến triển, và danh của Đức Chúa Trời cũng không ngừng thay đổi cùng với công tác của Ngài. Đức Chúa Trời làm công tác khác nhau trong các thời đại khác nhau, thì Ngài cũng có danh khác nhau. Đức Chúa Trời dùng danh để thay đổi thời đại và đại diện cho thời đại đó. Trong các thời đại khác nhau, Đức Chúa Trời có những danh khác nhau, đại diện cho những tâm tính khác nhau mà Ngài bày tỏ trong mỗi thời đại. Ở Thời đại Luật pháp, Đức Chúa Trời ban bố luật pháp để dẫn dắt người Y-sơ-ra-ên trong cuộc sống trên mặt đất. Danh Đức Giê-hô-va đại diện cho tâm tính oai nghi, thịnh nộ, có thể thương xót và rủa sả con người của Đức Chúa Trời. Ở Thời đại Ân điển, Đức Chúa Trời nhập thể trở thành Đức Chúa Jêsus. Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá, làm của lễ chuộc tội cho nhân loại. Danh Jêsus này đại diện cho tâm tính thương xót và từ ái của Đức Chúa Trời. Tôi thấy được trong mỗi thời đại, danh mà Đức Chúa Trời dùng đều có ý nghĩa, vậy mà tôi lại cho rằng công tác của Đức Chúa Trời và danh của Ngài vĩnh viễn không thay đổi, làm vậy chẳng phải là đã quy định Đức Chúa Trời rồi sao?

Tiếp đó, tôi lại đọc thêm được một đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, khiến lòng tôi càng thêm sáng tỏ. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Ta đã từng được gọi là Đức Giê-hô-va, cũng từng được con người xưng là Đấng Mê-si, và con người từng gọi Ta là Đấng Cứu Thế Jêsus với tình yêu kính và sự quý trọng. Tuy nhiên, ngày nay Ta không còn là Đức Giê-hô-va hay Jêsus mà con người đã biết trong quá khứ nữa; Ta là Đức Chúa Trời, Đấng đã trở lại trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời sẽ chấm dứt thời đại. Ta chính là Đức Chúa Trời trỗi dậy từ địa cực, có đầy đủ toàn bộ tâm tính của Ta, và đầy thẩm quyền, sự tôn quý và vinh hiển. Con người chưa từng tiếp xúc với Ta, chưa từng biết đến Ta, chưa từng biết về tâm tính của Ta. Từ lúc sáng thế cho đến ngày nay, chưa một ai từng nhìn thấy Ta. Đây là Đức Chúa Trời, Đấng hiện ra cho con người trong thời kỳ sau rốt nhưng lại ẩn giấu giữa con người. Ngài cư ngụ giữa mọi người, chân thực và thực tế, như mặt trời thiêu đốt, như ngọn lửa cháy rực, đầy dẫy quyền năng và tràn đầy thẩm quyền. Sẽ không có một người nào hay vật nào không bị phán xét bởi những lời của Ta, và sẽ không có một người nào hay vật nào không được làm cho tinh sạch thông qua sự thiêu đốt của ngọn lửa. Cuối cùng, muôn nước sẽ nhờ những lời của Ta mà được phúc, và cũng vì những lời của Ta bị đập tan thành từng mảnh. Như thế, hết thảy mọi người trong thời kỳ sau rốt sẽ thấy rằng Ta là Đấng Cứu Thế tái lâm, là Đức Chúa Trời Toàn Năng chinh phục toàn thể nhân loại. Và tất cả sẽ thấy rằng Ta đã từng là của lễ chuộc tội cho con người, nhưng trong thời kỳ sau rốt Ta còn trở thành ngọn lửa mặt trời thiêu đốt vạn vật, cũng như là Mặt Trời công chính tỏ lộ vạnn vật. Đây là công tác của Ta trong thời kỳ sau rốt. Ta đã lấy danh này và mang tâm tính này hầu cho tất cả mọi người có thể thấy rằng Ta là Đức Chúa Trời công chính, là mặt trời thiêu đốt, cũng là ngọn lửa cháy rực, và hầu cho tất cả có thể thờ phượng Ta, Đức Chúa Trời thật duy nhất, và hầu cho họ có thể nhìn thấy dung nhan thật của Ta: Ta không chỉ là Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên, và Ta không chỉ là Đấng Cứu Chuộc; mà Ta là Đức Chúa Trời của mọi loài thọ tạo trên trời, dưới đất và trong biển cả(Đấng Cứu Thế đã trở lại trên một “đám mây trắng”, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi cảm thấy những lời này rất có thẩm quyền và chính là lời của Đức Chúa Trời. Tôi cũng hiểu được rằng, hóa ra Đức Giê-hô-va, Đấng Mê-si-a, Đức Chúa Jêsus và Đức Chúa Trời Toàn Năng đều là danh của Đức Chúa Trời. Tất cả đều cùng là một Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời Toàn Năng là danh mà Đức Chúa Trời dùng để công tác trong thời kỳ sau rốt. Điều này cũng ứng nghiệm với lời trong Kinh Thánh: “Chúa là Ðức Chúa Trời, Ðấng Hiện Có, Ðã Có, và Còn Ðến, là Ðấng Toàn năng, phán rằng: Ta là An-pha và Ô-mê-ga(Khải Huyền 1:8). Nghĩ đến đây, tôi thấy rất đau lòng. Những người Pha-ri-si trước đây đã khăng khăng bám lấy những câu chữ trong Kinh Thánh, cho rằng ai không được gọi là Đấng Mê-si-a thì không thể là Đức Chúa Trời, và kết quả là họ đóng đinh Đức Chúa Jêsus lên thập tự giá, rồi phải chịu sự trừng phạt của Đức Chúa Trời. Tôi của hiện tại chẳng phải cũng giống như người Pha-ri-si sao? Tôi bám lấy những câu chữ trong Kinh Thánh, rồi sống trong quan niệm, tưởng tượng của mình, cho rằng nếu không được gọi là Jêsus thì Ngài không phải là Đức Chúa Trời. Trong việc nghênh đón Chúa, tôi không tìm kiếm, cũng không kiểm chứng cẩn thận, chỉ ngoan cố giữ lấy quan niệm cùng tưởng tượng của bản thân, còn tưởng rằng mình đang bảo vệ danh của Chúa, giữ vững đường lối của Chúa, mà không biết rằng chính mình đang chống đối công tác mới của Đức Chúa Trời. Tôi hối hận đến mức bật khóc.

Tôi vội vã đọc tiếp, và thấy trong sách phúc âm nói rằng: “Rất nhiều người có quan niệm thế này, họ tin rằng Kinh Thánh đã nói rất rõ rằng, tất cả những ai rao truyền điều gì khác so với họ thì đều sẽ bị rủa sả, những gì mà người của ‘Tia chớp phương Đông’ rao truyền khác với những gì mà họ rao truyền, và đó là một phúc âm khác, nên họ không dám tiếp nhận”. Đây cũng là vấn đề khiến tôi thấy nghi hoặc, nên tôi nhất định phải đọc kỹ. Sách viết rằng: “Sách Ga-la-ti là bức thư mà Sứ đồ Phao-lô viết cho hội thánh ở Ga-la-ti. Lúc đó, phúc âm của Đức Chúa Jêsus đã được mở rộng rầm rộ ra bên ngoài, ở Ga-la-ti cũng có rất nhiều người tiếp nhận công tác mới của Đức Chúa Jêsus và đã lập nên hội thánh. Khi ấy đang là giai đoạn chuyển tiếp từ Thời đại Luật pháp sang Thời đại Ân điển, và trong số những người Do Thái lúc đó, có hai nhóm người rao truyền phúc âm: Một nhóm rao truyền công tác cũ của Thời đại Luật pháp, bảo người ta tuân thủ luật pháp của Đức Giê-hô-va, tức là chịu phép cắt bì, giữ ngày Sa-bát, vào đền thờ, v.v. Nhóm người còn lại (chủ yếu là mười hai môn đồ của Jêsus) thì rao truyền công tác mới của Thời đại Ân điển, bảo người ta tin Đức Chúa Jêsus để được cứu rỗi, và làm theo yêu cầu của Đức Chúa Jêsus, tức là xưng tội, hối cải, chịu phép báp-têm, bẻ bánh, yêu thương lẫn nhau, bao dung, nhẫn nại, v.v. Người Pha-ri-si bám lấy luật pháp trong Cựu Ước, nói rằng phúc âm mà các môn đồ của Jêsus rao truyền khác với những gì họ rao truyền, nói đường lối của Jêsus đã vượt ra ngoài Kinh Thánh và vứt bỏ luật pháp. Họ kết tội công tác mới của Jêsus, và còn quấy nhiễu những người tiếp nhận sự cứu rỗi của Jêsus trên thập tự giá. Họ nói rằng con người không được cứu rỗi khi tin Jêsus, việc này là làm trái với lời dạy của Đức Giê-hô-va, và con người vẫn phải tiếp tục giữ ngày Sa-bát, chịu phép cắt bì, v.v. Tuy nhiên, người Ga-la-ti thời đó thiếu sự phân định, đã rời xa phúc âm của Jêsus mà Phao-lô rao truyền, để đi theo những người Do Thái rao truyền luật pháp Cựu Ước. Khi Nghe nói các anh chị em trong hội thánh ở Ga-la-ti vứt bỏ phúc âm của Đức Chúa Jêsus và quay lại đền thờ, Phao-lô đã viết thư cho hội thánh ở Ga-la-ti, nói rằng: ‘Tôi lấy làm lạ cho anh em đã vội bỏ Ðấng gọi anh em bởi ơn Ðức Chúa Jêsus Christ, đặng theo tin lành khác. Thật chẳng phải có tin lành khác, nhưng có mấy kẻ làm rối trí anh em, và muốn đánh đổ Tin Lành của Ðấng Christ’ (Ga-la-ti 1:6-7). Ông viết như vậy để khích lệ người Ga-la-ti trở lại con đường thật. Nhưng chúng ta đều biết, người Pha-ri-si khăng khăng bám lấy luật pháp, kết tội Đức Chúa Jêsus, nên đã bị công tác mới của Đức Thánh Linh đào thải, rồi cuối cùng phải chịu sự trừng phạt và rủa sả của Đức Chúa Trời. Vậy thì ngày nay, chúng ta nên tiếp cận công tác mới của Đức Chúa Trời như thế nào?”. Đọc xong đoạn thông công này, tôi mới nhận ra rằng mình chưa từng hiểu Kinh Thánh. Tôi không biết Phao-lô đã nói những lời đó trong bối cảnh nào, mà chỉ tùy tiện giải thích dựa vào quan niệm và tưởng tượng của bản thân. “Phúc âm khác” mà Phao-lô nhắc đến là nói về phúc âm của Đức Giê-hô-va được rao truyền vào thời kỳ cuối của Thời đại Luật pháp, bảo người ta tuân thủ luật pháp trong Cựu Ước, chứ không phải nói về phúc âm của Thời đại Vương quốc. Vì khi Phao-lô viết thư này, Đức Chúa Trời vẫn chưa làm công tác của thời kỳ sau rốt, cũng chưa có ai rao truyền phúc âm thời kỳ sau rốt của Ngài. Thế mà tôi lại coi những người rao truyền phúc âm của vương quốc là người rao truyền “phúc âm khác”. Tôi đã gán ghép một cách mù quáng, bừa bãi và lĩnh hội vô cùng lệch lạc về Kinh Thánh! Tôi thật quá bần cùng, đáng thương và đui mù! Tôi cảm thấy cực kỳ xấu hổ. Trước kia, tôi còn huênh hoang nói muốn đưa trở lại hội thánh những con chiên bị “Tia chớp phương Đông” cướp đi. Bây giờ, tôi mới hiểu, họ không phải bị mê hoặc, mà ngược lại, họ nhận ra rằng lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng đều là lẽ thật, và xác định đó là tiếng của Đức Chúa Trời, nên mới đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng. Thảo nào sau khi tiếp nhận “Tia chớp phương Đông”, họ có đức tin lớn đến vậy và không gì có thể kéo họ quay lại được. Hóa ra họ đã nghênh đón được Chúa rồi! Tôi vốn định đọc Kinh Thánh nhiều hơn để đưa trở về hội thánh những con chiên tốt bị “Tia chớp phương Đông” cướp đi. Nhưng tôi thật không ngờ rằng Đức Chúa Trời lại dùng hoàn cảnh đặc biệt này để hồi sinh trái tim tê liệt và cương ngạnh của tôi. Tôi cảm thấy vô cùng háo hức!

Sau đó, tôi hăm hở đọc lời Đức Chúa Trời, và đọc được những lời này: “Sau công tác của Đức Giê-hô-va, Jêsus đã trở nên xác thịt để làm công tác của Ngài giữa con người. Công tác của Ngài không được thực hiện riêng biệt, mà dựa trên công tác của Đức Giê-hô-va. Đó là công tác cho một thời đại mới mà Đức Chúa Trời thực hiện sau khi Ngài đã kết thúc Thời đại Luật pháp. Tương tự, sau khi công tác của Jêsus kết thúc, Đức Chúa Trời tiếp tục công tác của Ngài cho thời đại tiếp theo, bởi vì toàn bộ sự quản lý của Đức Chúa Trời luôn tiến về phía trước. Khi thời đại cũ trôi qua, nó sẽ được thay thế bởi một thời đại mới, và một khi công tác cũ đã được hoàn thành, sẽ có công tác mới để tiếp tục sự quản lý của Đức Chúa Trời. Đây là sự nhập thể lần thứ hai của Đức Chúa Trời, tiếp nối công tác của Jêsus. Tất nhiên, sự nhập thể này không xảy đến độc lập; đó là giai đoạn công tác thứ ba sau Thời đại Luật pháp và Thời đại Ân điển. Mỗi lần Đức Chúa Trời khởi xướng một giai đoạn công tác mới, luôn phải có một khởi đầu mới và điều đó luôn phải mang đến một thời đại mới. Vì vậy, cũng có những sự thay đổi tương ứng trong tâm tính của Đức Chúa Trời, cách thức Ngài làm việc, địa điểm làm việc của Ngài, và danh xưng của Ngài. Cho nên, chẳng có gì ngạc nhiên khi con người thật khó chấp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời đại mới. Nhưng bất kể Ngài bị con người chống đối ra sao, Đức Chúa Trời vẫn luôn làm công tác của Ngài, và luôn dẫn dắt toàn nhân loại tiến về phía trước. Khi Jêsus đến nhân gian, Ngài đã đem đến Thời đại Ân điển và kết thúc Thời đại Luật pháp. Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời đã một lần nữa trở nên xác thịt, và với sự nhập thể này, Ngài đã kết thúc Thời đại Ân điển và đem đến Thời đại Vương quốc. Hễ người nào có thể tiếp nhận sự nhập thể lần thứ hai của Đức Chúa Trời thì sẽ được đưa vào Thời đại Vương quốc, hơn nữa, còn có thể đích thân tiếp nhận sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Mặc dù Jêsus đã đến giữa con người và làm nhiều công tác, nhưng Ngài chỉ hoàn thành công tác cứu chuộc toàn thể nhân loại và làm của lễ chuộc tội cho con người; chứ Ngài vẫn chưa loại bỏ khỏi con người mọi tâm tính bại hoại của họ. Để hoàn toàn cứu rỗi con người khỏi quyền thế của Sa-tan, thì không phải chỉ cần Jêsus làm của lễ chuộc tội và gánh lấy tội lỗi của con người, mà còn cần Đức Chúa Trời làm công tác lớn lao hơn nữa để làm cho con người hoàn toàn thoát khỏi tâm tính bị Sa-tan làm cho bại hoại. Và vì thế, sau khi con người được tha thứ tội lỗi, Đức Chúa Trời đã trở lại xác thịt để dẫn dắt con người vào thời đại mới, cũng như bắt đầu công tác hành phạt và phán xét. Công tác này đã đưa nhân loại vào một cõi cao hơn. Hễ ai thuận phục dưới sự thống trị của Ngài sẽ được vui hưởng lẽ thật cao hơn và nhận lãnh được phúc lành lớn hơn. Họ sẽ thực sự sống trong sự sáng, sẽ đạt được lẽ thật, đường đi, và sự sống(Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Càng đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi càng thấy trong lòng sáng tỏ. Tôi hiểu được rằng công tác và danh của Đức Chúa Trời không phải là bất biến. Công tác của Đức Chúa Trời không ngừng tiến triển, và mỗi một thời kỳ công tác đều được xây dựng dựa trên nền tảng công tác của thời đại trước đó. Do công tác của Đức Chúa Trời ở mỗi thời đại là khác nhau, nên danh của Ngài và tâm tính mà Ngài bày tỏ cũng khác nhau. Nếu đúng theo những gì tôi nghĩ, rằng danh và công tác của Đức Chúa Trời vĩnh viễn không thay đổi, thì danh của Ngài mãi mãi phải là Đức Giê-hô-va, chứ không thể trở thành Jêsus được. Công tác của Ngài cũng không thể tiến triển được, và chỉ có thể dừng lại ở Thời đại Luật pháp. Vậy thì nhân loại cũng đã không thể nhận được sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời, và cuối cùng đều đã phải chết dưới luật pháp. Nếu chỉ giữ danh của Jêsus mà không tiếp nhận công tác cũng như danh mới của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, thì tôi mãi mãi không thể nghênh đón sự tái lâm của Chúa, cuối cùng chỉ có thể rơi vào thảm họa, rồi khóc lóc và nghiến răng vì đã bỏ lỡ công tác trong thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời.

Tôi lại đọc được thêm lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng: “Có lẽ, khi đã nghe về con đường của lẽ thật và đã đọc về lời của sự sống, ngươi tin rằng chỉ có một trong số 10.000 lời này là phù hợp với những quan điểm của ngươi và Kinh Thánh, vậy thì ngươi nên tiếp tục tìm kiếm nơi một phần vạn lời đó đi. Ta vẫn khuyên ngươi nên khiêm nhường, không nên quá tự tin, và không nên quá tự cao. Với chút ít lòng kính sợ Đức Chúa Trời như vậy, ngươi sẽ có được sự sáng vĩ đại hơn. Nếu ngươi cẩn thận xem xét và liên tục suy ngẫm những lời này, ngươi sẽ hiểu chúng có phải là lẽ thật hay không, và chúng có phải là sự sống hay không(Khi ngươi thấy được thân thể thuộc linh của Jêsus, Đức Chúa Trời đã làm mới lại trời đất, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng chạm đến tâm khảm của tôi. Đây đúng là tình trạng của tôi. Trước kia, chồng tôi đã nhiều lần làm chứng với tôi về công tác trong thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng, nhưng tôi đã quá tự cao, vô tri, cũng chẳng có chút lòng kính sợ nào đối với Đức Chúa Trời, chỉ dựa vào chút hiểu biết về Kinh Thánh của mình mà quy định công tác của Đức Chúa Trời, còn muốn tìm thêm nhiều cơ sở trong Kinh Thánh để phủ nhận danh và công tác mới của Đức Chúa Trời. Tôi thực sự quá cố chấp và lệch lạc rồi! Tôi muốn buông bỏ những quan niệm của mình, tiếp tục tìm kiếm, quan sát, xưng tội và hối cải với Đức Chúa Trời. Trước kia tôi luôn từ chối nghe chồng thông công về công tác trong thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời, nhưng giờ đây, tôi lại rất muốn nghe. Tuy nhiên, chồng tôi lại đang đi nơi khác để rao truyền phúc âm, không biết khi nào mới trở về. Nên mỗi ngày, tôi đều mở toang cửa chính và chờ đợi các anh chị em của Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng đến, hi vọng hôm nào đó sẽ có người đến để thông công với tôi.

Một buổi sáng nọ, tôi vừa ăn sáng xong thì nghe thấy có người gọi mình. Vừa nhìn thấy hai chị em của Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi cảm thấy vô cùng háo hức. Tôi vui vẻ mời họ vào nhà. Hai chị em thông công với tôi một lúc, rồi mở cuốn “Lời Xuất Hiện trong Xác Thịt” ra, tìm đến chương “Biết ba giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời là con đường để biết Đức Chúa Trời”, và bắt đầu đọc cho tôi nghe. Tôi chăm chú lắng nghe người chị em kia đọc lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Ba giai đoạn công tác là trọng tâm của toàn bộ sự quản lý của Đức Chúa Trời, và trong các giai đoạn đó, tâm tính của Đức Chúa Trời, cũng như Ngài là gì được bày tỏ. Những ai không biết đến ba giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời thì không có khả năng nhận ra Đức Chúa Trời bày tỏ tâm tính Ngài như thế nào, cũng không biết đến sự khôn ngoan trong công tác của Đức Chúa Trời. Họ cũng vẫn không biết gì về nhiều cách Ngài dùng để cứu rỗi nhân loại, và về tâm ý của Ngài đối với toàn thể nhân loại. Ba giai đoạn công tác là sự bày tỏ đầy đủ công tác cứu rỗi nhân loại. Những ai không biết đến ba giai đoạn công tác sẽ không biết gì về những phương pháp và nguyên tắc khác nhau trong công tác của Đức Thánh Linh, và những ai chỉ cứng nhắc bám vào các quy định còn sót lại từ một giai đoạn công tác nhất định là những kẻ giới hạn Đức Chúa Trời vào giáo lý, và là những kẻ có niềm tin mơ hồ và không chắc chắn nơi Đức Chúa Trời. Những kẻ như thế sẽ không bao giờ nhận được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Chỉ có ba giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời mới có thể bày tỏ đầy đủ tâm tính của Đức Chúa Trời, và bày tỏ trọn vẹn tâm ý cứu rỗi toàn nhân loại của Đức Chúa Trời, cùng toàn bộ quá trình cứu rỗi nhân loại. Đây là bằng chứng cho thấy Ngài đã đánh bại Sa-tan và thu phục được nhân loại; nó là bằng chứng về chiến thắng của Đức Chúa Trời, và là sự bày tỏ toàn bộ tâm tính của Đức Chúa Trời. Những người chỉ hiểu một trong ba giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời thì chỉ biết một phần tâm tính của Đức Chúa Trời. Trong các quan niệm của con người, thật dễ để một giai đoạn công tác riêng lẻ này trở thành giáo lý, và ngày càng có khả năng con người sẽ thiết lập các quy tắc cố định về Đức Chúa Trời và dùng phần tâm tính đơn lẻ này của Đức Chúa Trời làm đại diện cho toàn bộ tâm tính của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, nhiều sự tưởng tượng của con người được trộn lẫn bên trong, đến mức con người cứng nhắc giới hạn tâm tính, hữu thể, và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, cũng như các nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời, vào trong các thông số giới hạn, tin rằng nếu một khi Đức Chúa Trời đã như thế, thì Ngài sẽ vẫn mãi mãi như thế và không bao giờ thay đổi. Chỉ những ai biết và xem trọng ba giai đoạn công tác mới có thể biết Đức Chúa Trời đầy đủ và chính xác. Ít nhất, họ sẽ không định nghĩa Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên, hay dân Do thái, và sẽ không xem Ngài như là một Đức Chúa Trời sẽ đời đời bị đóng đinh lên thập tự giá vì con người. Nếu một người chỉ biết đến Đức Chúa Trời từ một giai đoạn công tác của Ngài, thì kiến thức của họ quá ít ỏi, và không hơn một giọt nước trong đại dương. Nếu không, tại sao nhiều kẻ bảo vệ tôn giáo xưa kia lại đóng sống Ngài lên thập tự giá? Đó chẳng phải vì con người giới hạn Đức Chúa Trời trong những thông số nào đó sao? Chẳng phải nhiều người chống đối Đức Chúa Trời và cản trở công tác của Đức Thánh Linh bởi vì họ không biết đến những công tác khác nhau và đa dạng của Đức Chúa Trời, và hơn nữa, bởi vì họ chỉ sở hữu một chút ít kiến thức và giáo lý để đo lường công tác của Đức Thánh Linh sao? Mặc dù kinh nghiệm của những kẻ đó hời hợt, nhưng họ kiêu ngạo và phóng túng từ trong bản tính và họ khinh thường công tác của Đức Thánh Linh, phớt lờ những sự sửa dạy của Đức Thánh Linh, và hơn thế nữa, dùng những lý lẽ tầm thường cũ rích để ‘kiểm chứng’ công tác của Đức Thánh Linh. Họ cũng vờ vịt, hoàn toàn tin chắc về kiến thức và học thức uyên bác của chính mình, và tin rằng họ có thể chu du khắp thiên hạ. Chẳng phải những kẻ như thế là những kẻ bị Đức Thánh Linh ghét bỏ, và họ sẽ bị thời đại mới đào thải sao? Chẳng phải những kẻ đến trước Đức Chúa Trời và công khai chống đối Ngài là những kẻ hung ác ngu dốt và thiếu thông tin, những kẻ chỉ đơn thuần cố gắng thể hiện mình tài giỏi đến mức nào sao? Chỉ với chút kiến thức ít ỏi về Kinh Thánh, họ cố hoành hành trong ‘giới hàn lâm’ của thế giới; chỉ với một giáo lý nông cạn để dạy mọi người, họ cố gắng làm đảo lộn công tác của Đức Thánh Linh và cố làm cho nó xoay quanh quá trình tư duy của chính họ. Với cái nhìn thiển cận như thế, họ cố gắng thấy được 6.000 năm công tác của Đức Chúa Trời trong một cái liếc mắt. Những người này chẳng có lí do gì đáng để nói đến! Thực tế là, kiến thức của con người về Đức Chúa Trời càng nhiều, họ càng chậm phán xét công tác của Ngài. Hơn nữa, họ chỉ nói một chút trong kiến thức của họ về công tác của Đức Chúa Trời ngày hôm nay, nhưng họ không vội vàng khi phán xét. Con người càng biết ít về Đức Chúa Trời, thì họ càng kiêu ngạo và tự tin quá mức, và họ càng bừa bãi tuyên bố về hữu thể của Đức Chúa Trời – nhưng họ chỉ nói lý thuyết, và không đưa ra chứng cớ xác thực. Những kẻ như thế thật vô giá trị(Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Nghe xong đoạn lời Đức Chúa Trời này, tôi cảm thấy Đức Chúa Trời thực sự đã nhìn thấu nội tâm của tôi, và vạch rõ các quan niệm của tôi. Tôi chỉ biết một trong ba bước công tác của Đức Chúa Trời, thế mà cứ khăng khăng bám lấy những câu chữ trong Kinh Thánh còn sót lại từ bước công tác đó. Tôi giới hạn Đức Chúa Trời trong những quy định, cho rằng danh của Ngài là Jêsus thì sẽ không bao giờ thay đổi. Tôi còn nói, tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng nghĩa là phản bội Đức Chúa Jêsus, là ly giáo và bội giáo. Tôi thấy mình không có chút hiểu biết gì về công tác của Đức Chúa Trời, và là người tin Đức Chúa Trời trong mơ hồ. Ba bước công tác là sự bày tỏ trọn vẹn về công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời. Biết một trong ba bước công tác thì tôi cũng chỉ biết được một phần tâm tính của Đức Chúa Trời, thế mà tôi lại kiên quyết giới hạn tâm tính, bản thể, sự khôn ngoan và công tác của Đức Chúa Trời trong cái phạm vi hạn hẹp kia, cho rằng Đức Chúa Trời đã như thế này một lần thì sẽ mãi mãi là như vậy. Tôi quá thiển cận, đã không nhận biết Đức Chúa Trời, mà còn quy định danh và công tác của Ngài. Tôi thực sự quá ngạo mạn rồi!

Sau đó, tôi đọc thêm rất nhiều lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng, và tin chắc rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm, nên tôi đã gia nhập Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng, bắt đầu nhóm họp với các anh chị em, cũng như đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. Tôi cảm thấy mình được cung ứng rất nhiều. Tạ ơn Đức Chúa Trời vì đã tỏ lòng thương xót, ban ân điển cho tôi, thông qua cách thức kỳ diệu đến vậy để khiến tôi tiếp nhận sự cứu rỗi trong thời kỳ sau rốt của Ngài và nghênh đón sự xuất hiện của Chúa!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Tôi đã thấy Cuộn sách khai mở

Bởi Jose, Tây Ban Nha Khi tôi tiếp nhận Chúa, tôi hiểu được mọi thứ phát xuất từ đâu và nguồn gốc sự bại hoại của con người nhờ việc đọc...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger