Kiên cường trong hoàn cảnh khó khăn

03/07/2024

Tháng 5 năm 2022, người dân ở một số ngôi làng đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng vào thời kỳ sau rốt, nhưng không lâu sau thì nhiều người mới đột nhiên không đến nhóm họp nữa. Chúng tôi tìm hiểu thì mới biết đang có nhiều lính vũ trang tuần tra vào ban đêm, và sẽ bắt giữ bất cứ ai đi nhóm họp. Ở các khu vực khác, một số anh chị em đã bị phạt tiền, bị bắt và bỏ tù vì tin Đức Chúa Trời. Người mới ở những ngôi làng đó sợ hãi đến mức không dám tham gia nhóm họp. Vì vậy, lãnh đạo đã sắp xếp cho tôi và chị Isa đi hỗ trợ những người mới, thế là tôi và Isa cùng nhau chăm tưới riêng cho họ.

Một đêm nọ, tôi chưa về đến nhà thì đã nhận được cuộc gọi của Isa nói rằng người chị tiếp đãi của chúng tôi sợ bị bắt và bị phạt nên giục chúng tôi chuyển đi. Tôi nghĩ bụng: “Trời tối rồi, biết tìm đâu ra gia đình tiếp đãi vào giờ này?”. Sau đó, chúng tôi thử tìm đến nhà chị Yana, nhưng Yana và con trai chị ấy sợ bị bắt nên cũng không dám tiếp chúng tôi. Nửa đêm khuya khoắt, chúng tôi bất chợt trở thành người vô gia cư. Tôi cảm thấy buồn bã và uất ức. Đêm đó trời đổ mưa, Isa và tôi không biết phải đi đâu nên cả hai đều muốn rời khỏi vùng đó luôn. Nhưng nghĩ lại thì vẫn còn nhiều người mới cần được chăm tưới và hỗ trợ. Nếu chúng tôi bỏ đi và những người mới này không có người chăm tưới, họ sẽ càng khó đứng vững hơn, vậy thì khác nào trốn tránh trách nhiệm. Nghĩ đến đây, tôi quyết định ở lại, tìm xem liệu có người mới nào sẵn sàng tiếp đãi chúng tôi không. Sau đó, có một người anh em sẵn lòng cho chúng tôi ở lại nhà, nhưng chỉ có thể ở lại một đêm. Lúc đó tôi khóc và nghĩ: “Chỉ được ở lại một đêm, sau đó thì vẫn không có chỗ dung thân! Tôi muốn công tác nhưng lại gặp trở ngại lớn, không quen thuộc với khu vực này, nếu bị chính phủ phát hiện đang rao giảng phúc âm thì chúng tôi sẽ bị bắt bớ và bách hại”. Tôi thấy chán nản và muốn bỏ cuộc. Khi người phụ trách nghe nói tôi muốn rời đi, chị ấy bảo: “Những người mới không hiểu lẽ thật và sống trong rụt rè, sợ hãi, cần được chăm tưới và hỗ trợ, chúng ta không thể từ bỏ những người mới này. Chị suy nghĩ lại xem còn cách nào khác không. Chúng ta phải học cách cậy dựa Đức Chúa Trời, Ngài sẽ chuẩn bị một nơi cho các chị”. Lời khuyên của chị ấy giúp tôi nhận ra khi gặp khó khăn thì tôi nên cậy dựa vào Đức Chúa Trời nhiều hơn. Nên tôi cầu nguyện, xin Đức Chúa Trời mở ra lối thoát. Sau đó, khi xem qua một số tin nhắn trong nhóm chat, tôi thấy lời này của Đức Chúa Trời: “Kể từ khi Đức Chúa Trời giao phó việc đóng tàu cho Nô-ê, không thời điểm nào Nô-ê thầm nghĩ: ‘Khi nào Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt thế gian? Khi nào thì Ngài sẽ cho mình dấu hiệu rằng Ngài sẽ làm điều đó?’. Thay vì suy ngẫm những chuyện như vậy, Nô-ê đã cố gắng cật lực để ghi nhớ từng điều mà Đức Chúa Trời đã bảo ông và sau đó thực hiện từng điều một. Sau khi tiếp nhận những gì được Đức Chúa Trời giao phó cho mình, Nô-ê bắt tay vào thực hiện và hoàn thành việc đóng tàu được Đức Chúa Trời nói đến như thể đó là điều quan trọng nhất trong cuộc đời của ông, không chút ý nghĩ chần chừ. Ngày trôi qua, năm trôi qua, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Đức Chúa Trời không hề đặt bất kỳ áp lực nào lên Nô-ê, nhưng xuyên suốt thời gian này, Nô-ê kiên trì với nhiệm vụ quan trọng mà Đức Chúa Trời đã giao phó cho ông. Mỗi lời và sự biểu đạt mà Đức Chúa Trời đã phán ra đều được ghi khắc vào tim Nô-ê như những lời được khắc trên một tấm bia đá. Không quan tâm đến những thay đổi ở thế giới bên ngoài, đến sự chế giễu của những người xung quanh ông, đến những gian khổ liên quan, hoặc đến những khó khăn mà ông đã gặp phải, ông đã kiên trì xuyên suốt với những gì đã được Đức Chúa Trời giao phó cho ông, không bao giờ tuyệt vọng hay nghĩ đến việc bỏ cuộc. Lời Đức Chúa Trời đã được ghi khắc vào lòng Nô-ê, và chúng đã trở thành thực tế hàng ngày của ông. Nô-ê đã chuẩn bị mỗi một vật liệu cần thiết cho việc đóng tàu, và hình dạng cũng như những đặc điểm kỹ thuật của con tàu do Đức Chúa Trời lệnh cho đã dần thành hình với từng nhát búa và đục cẩn thận của Nô-ê. Dù mưa hay gió, và bất kể người ta có chế nhạo hay phỉ báng ông ra sao, cuộc sống của Nô-ê vẫn tiếp diễn theo cách này, năm này qua năm khác. Đức Chúa Trời đã bí mật dõi theo mọi hành động của Nô-ê, không bao giờ phán ra lời nào khác với ông, và lòng Ngài cảm động vì Nô-ê. Tuy nhiên, Nô-ê không hay biết hay cảm nhận được điều này; từ đầu đến cuối, ông chỉ việc đóng tàu, và tập hợp mọi loại sinh vật sống, với lòng trung thành kiên định với lời Đức Chúa Trời. Trong lòng Nô-ê, không có lời chỉ dẫn nào cao hơn mà ông phải làm theo và thực hiện: lời Đức Chúa Trời là phương hướng và mục tiêu suốt đời ông. Vì vậy, bất kể Đức Chúa Trời phán gì với ông, bất kể Đức Chúa Trời bảo ông làm gì, ra lệnh cho ông làm gì, Nô-ê cũng hoàn toàn chấp nhận, ghi nhớ, và xem đó là nỗ lực cả đời của mình. Ông không những không quên, ông không những khắc ghi điều đó trong tâm trí mình, mà còn biến nó thành thực tế trong đời sống của riêng mình, dùng mạng sống của mình để tiếp nhận và thực hiện sự ủy nhiệm của Đức Chúa Trời. Và theo cách này, từng miếng ván một, con tàu được đóng lên. Mọi động thái của Nô-ê, mỗi ngày của ông, đều dành riêng cho những lời và điều răn của Đức Chúa Trời. Có thể có vẻ như không phải là Nô-ê đang thực hiện một công việc trọng đại, nhưng trong mắt của Đức Chúa Trời, tất cả những gì Nô-ê đã làm, thậm chí từng bước ông thực hiện để đạt được điều gì đó, mọi công sức do chính tay ông thực hiện – tất cả đều quý giá và đáng tưởng nhớ, và đáng để nhân loại này tích cực noi gương. Nô-ê đã tuân theo những gì Đức Chúa Trời đã giao phó cho ông. Ông đã kiên định với niềm tin của mình rằng mọi lời Đức Chúa Trời phán đều là thật; về việc này, ông đã không nghi ngờ gì. Và kết quả là, con tàu đã được hoàn thành, và mọi loại sinh vật sống đều có thể sống trên đó(Bài bàn thêm 2: Nô-ê và Áp-ra-ham đã lắng nghe lời Đức Chúa Trời và thuận phục Ngài như thế nào (Phần 1), Lời, Quyển 4 – Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). Nô-ê nghe thấy lời Đức Chúa Trời, khắc sâu những lời phán và sự ủy thác của Đức Chúa Trời trong tim, xem việc đóng tàu là điều quan trọng nhất đời mình, và việc hoàn thành con tàu là trách nhiệm quan trọng nhất. Ngày này qua ngày khác, năm này qua năm nọ, ông đã phải chịu nhiều đau khổ và mệt mỏi, nhưng bất kể gặp phải khó khăn gì, dù là thời tiết khắc nghiệt, hoặc bị người ta cười nhạo, phỉ báng và cự tuyệt, ông vẫn kiên trì thực hiện sự ủy thác của Đức Chúa Trời và chưa một lần nghĩ đến chuyện bỏ cuộc. Bởi vì Nô-ê kính sợ Đức Chúa Trời, nên mỗi lời của Đức Chúa Trời đều được khắc sâu vào lòng Nô-ê. So sánh biểu hiện của Nô-ê với hành vi của bản thân, tôi đã luôn mong mọi thứ suôn sẻ và không muốn gặp khó khăn trong bổn phận. Khi gặp gian nan trong bổn phận, không có nơi nào để ở lại và có nguy cơ bị bắt, tôi luôn muốn thoái lui, không sẵn lòng chịu đau khổ và trả giá. Xem ra tôi không phải là người quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, không thực sự muốn làm Ngài hài lòng. Trải nghiệm của Nô-ê đã khích lệ tôi, nhưng cũng khiến tôi bẽ mặt. Tôi không muốn nuông chiều xác thịt của mình nữa, và quyết định ở lại để hỗ trợ những người mới. Nếu không có ai tiếp đãi, tôi sẽ ra ngủ ngoài đồng, kiên trì rao giảng phúc âm và chăm tưới cho những người mới.

Sau đó, tôi và chị Isa đã liên hệ với một người mới tên Nevin, hỏi liệu chúng tôi có thể ở trong căn chòi gỗ trên cánh đồng nhà anh ấy không. Nevin đồng ý và bố mẹ anh ấy cũng vậy. Tôi biết Đức Chúa Trời đang mở ra lối thoát cho chúng tôi. Sau đó, tôi tổ chức một buổi nhóm họp cho tất cả những người mới trong làng và thông công với họ: “Khi Đức Chúa Trời thực hiện công tác cứu rỗi con người, Sa-tan liên tục quấy nhiễu. Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan quấy nhiễu và bách hại để hoàn thiện đức tin và tình yêu của con người, đồng thời cũng để vạch trần con người, đào thải họ và thử thách đức tin của họ. Tín hữu chúng ta nếu muốn mưu cầu lẽ thật và sự sống thì không được chùn bước trước đau khổ. Hoàn cảnh hiện tại buộc chúng ta phải lên núi để gặp mặt thay vì hội họp ở nhà, dù có khó khăn hơn một chút, nhưng những khổ đau này đều có ý nghĩa. Nếu đợi đến khi chế độ Sa-tan sụp đổ và ngừng bách hại rồi mới tin vào Đức Chúa Trời, thì khi đó công tác của Ngài đã kết thúc và chúng ta sẽ hết cơ hội được cứu rỗi. Tại sao chúng ta nên rao giảng phúc âm? Vì hiện tại là thời kỳ sau rốt, là giai đoạn cuối cùng trong công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời, nếu bỏ lỡ cơ hội này, chúng ta sẽ không bao giờ được cứu rỗi. Trong tương lai, các thảm họa sẽ ngày càng trầm trọng và không thể chịu nổi”. Lúc đó chúng tôi đã thông công khá nhiều, nghe xong thì vài người mới nói: “Chúng ta không thể tự bảo vệ mình khi đối mặt với các thảm họa, và không một ai, kể cả chính phủ, có thể cứu được chúng ta. Chỉ Đức Chúa Trời mới có thể cứu rỗi chúng ta, nên chúng ta phải tin Ngài và tham dự nhóm họp”. Có người mới còn nói: “Chúng ta không thể lo sợ bị chính quyền bắt giữ và phạt tiền, mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, chúng ta phải tiếp tục nhóm họp”. Sau đó, chúng tôi đã thông công lẽ thật về sự nhập thể và công tác phán xét. Sau khi chăm tưới khoảng mười ngày, những người mới đã có thể nhóm họp bình thường.

Sau khoảng mười ngày nữa, cảnh sát ra lệnh tuần tra ban đêm. Nevin sợ bị liên lụy nên không muốn chúng tôi ở lại căn chòi gỗ của anh ấy nữa. Trước hoàn cảnh này, tôi không khỏi oán trách: Còn rất nhiều người mới cần được chăm tưới và hỗ trợ, công tác hiện tại cũng gặp nhiều khó khăn, giờ lại không có chỗ ở. Tôi cảm thấy đau khổ và không còn tâm trạng giải quyết vấn đề của những người mới. Sau đó, một người chị gửi cho tôi đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Bởi vì khi một người đón nhận những gì Đức Chúa Trời giao phó cho họ, Đức Chúa Trời có một tiêu chuẩn để phán xét liệu những hành động của họ là tốt hay xấu và liệu người đó có thuận phục, liệu người đó có thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời và liệu họ có đạt tiêu chuẩn hay không. Điều Đức Chúa Trời quan tâm chính là tấm lòng của người đó, chứ không phải những hành động bề ngoài của họ. Không phải là Đức Chúa Trời sẽ ban phúc lành cho ai đó miễn sao họ làm điều gì đó, bất kể họ làm như thế nào. Đây là một sự hiểu lầm mà con người có về Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không chỉ nhìn vào kết quả sau cùng của các sự việc, mà còn chú trọng hơn vào việc lòng người và thái độ của con người như thế nào trong quá trình phát triển của các sự vật, và Ngài xem xét liệu có sự thuận phục, cân nhắc, và khao khát đáp ứng Đức Chúa Trời trong lòng họ hay không(Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Đọc xong lời Ngài, tôi phản tỉnh về bản thân; Khi mới bắt đầu hỗ trợ những người mới, tôi nghĩ vì mình đang thực hiện bổn phận nên mọi việc sẽ diễn ra suôn sẻ, những người mới nên hiểu cho tôi, tiếp đãi và bảo vệ tôi. Khi bị bách hại và không được ai tiếp đãi, lại còn gặp phải nhiều vấn đề trong công tác, tôi than vãn rằng tại sao mình luôn gặp phải những hoàn cảnh khó khăn, còn oán trách những người mới không sốt sắng mưu cầu. Tôi cảm thấy công tác quá khó khăn nên muốn rời đi và về nhà. Khi phải chịu đau khổ và trả giá, tôi đã không muốn thuận phục, chỉ nghĩ đến lợi ích xác thịt của bản thân và không quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời. Nghĩ tới đây, tôi cảm thấy thật xấu hổ. Sau đó có một người chị nhắc nhở tôi: “Tại sao chị lại không thể thuận phục khi phải chịu đau khổ và trả giá? Tại sao chị chỉ luôn quan tâm lợi ích xác thịt của mình? Phương diện nào trong tâm tính bại hoại đã gây ra điều này?”. Tôi đã không ngừng suy ngẫm về những câu hỏi của chị ấy.

Rồi tôi thấy đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Hiện tại những chuyện xảy đến không phù hợp với quan niệm liệu có ảnh hưởng tới việc ngươi thực hiện bổn phận hay không? Ví dụ, có lúc công tác bận rộn, con người buộc phải chịu khổ và trả giá đôi chút mới có thể làm tròn bổn phận của mình; trong tâm trí một số người sẽ nảy sinh quan niệm, nảy sinh lòng chống đối, thậm chí trở nên tiêu cực biếng nhác. Có lúc công tác không bận rộn, bổn phận con người phải thực hiện trở nên nhẹ nhàng hơn, một số người sẽ vui vẻ nghĩ thầm: ‘Nếu bổn phận lúc nào cũng dễ dàng thực hiện thế này thì tốt quá’. Họ là dạng người gì? Họ là những kẻ lười biếng, chỉ tham hưởng an nhàn thể xác. Liệu những người như thế có trung thành với bổn phận mình phải thực hiện hay không? (Thưa, chắc chắn là không.) Người như thế ngoài miệng nói sẵn lòng vâng phục Đức Chúa Trời, nhưng sự vâng phục của họ có điều kiện, bắt buộc phải phù hợp với quan niệm cá nhân của họ và không vất vả khổ cực, như thế họ mới có thể vâng phục, nếu đối mặt với nghịch cảnh buộc họ lâm vào khốn khó, họ sẽ liên tục oán trách, thậm chí phản nghịch, chống đối Đức Chúa Trời. Họ là dạng người gì? Họ là những kẻ không yêu lẽ thật. Khi những điều Đức Chúa Trời làm phù hợp với quan niệm và mong muốn của họ, không đòi hỏi họ phải vất vả, thì họ có thể vâng phục. Nếu việc làm của Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm, sở thích của họ, yêu cầu họ phải chịu khổ và trả giá, họ sẽ không thể vâng phục nữa, tuy ngoài mặt không phản đối, nhưng trong lòng lại chống đối, không thoải mái, cảm thấy mình phải chịu đựng gian khổ quá lớn, trong lòng âm thầm oán trách. Vấn đề ở đây là gì? Điều này chứng tỏ họ không yêu lẽ thật(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời tôi nhận ra, có những người luôn muốn thực hiện bổn phận một cách suôn sẻ. Ngay khi gặp khó khăn và phải chịu khổ hoặc trả giá, họ liền chống đối và oán trách. Họ là những kẻ lười biếng và tham hưởng sự an nhàn của xác thịt, không trung thành với bổn phận và không quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, lại càng không yêu lẽ thật. Tôi nhận ra mình cũng giống như vậy, luôn thích thực hiện bổn phận một cách an nhàn và muốn mọi việc diễn ra thuận lợi, không sẵn lòng chịu khổ hay trả giá. Khi đối mặt với sự bách hại, khi những người mới sợ bị bắt nên không dám hội họp hay tiếp đãi chúng tôi, tôi không những đau khổ về thể xác vì không có nơi ở, mà còn phải trả giá đắt để đi tìm người mới và thông công về lời Đức Chúa Trời để giúp đỡ họ. Tôi cứ phàn nàn về những khó khăn khi bị bách hại, oán trách những người mới rụt rè, sợ hãi và thiếu chính kiến. Tôi muốn từ bỏ bổn phận và rời đi. Khi gặp khó khăn, tôi chỉ nghĩ đến những lợi ích xác thịt của bản thân, không hề có lòng trung thành hay thuận phục. Đức Chúa Trời cho phép hoàn cảnh này diễn ra vì Ngài hy vọng tôi có thể tìm kiếm lẽ thật và rút ra bài học từ trải nghiệm này. Nhưng tôi đã không chú trọng đến lối vào sự sống, luôn tham hưởng sự an nhàn xác thịt và đối đãi với bổn phận theo sở thích cá nhân. Tôi hoàn toàn không phải là người yêu lẽ thật. Rồi tôi đọc được thêm một đoạn lời Đức Chúa Trời khiến tôi xúc động. Đức Chúa Trời phán: “Hôm nay ngươi không tin những lời Ta phán, và ngươi không chú ý đến chúng; khi tới ngày công tác này lan truyền đi, và ngươi nhìn ra toàn bộ sự việc, ngươi sẽ hối tiếc, và khi đó ngươi sẽ chết lặng. Có phước lành nhưng ngươi không biết hưởng, có lẽ thật nhưng ngươi không kiếm tìm. Chẳng phải ngươi coi rẻ bản thân sao? Hôm nay, mặc dù bước tiếp theo trong công tác của Đức Chúa Trời vẫn chưa bắt đầu, nhưng chẳng có thêm những yêu cầu dành cho ngươi và những gì ngươi phải sống thể hiện ra. Có quá nhiều công tác và quá nhiều lẽ thật; chúng không đáng để ngươi biết ư? Hình phạt và phán xét của Đức Chúa Trời không thể đánh thức tâm hồn ngươi ư? Hình phạt và phán xét của Đức Chúa Trời không thể khiến ngươi ghét bản thân ư? Ngươi có hài lòng sống dưới ảnh hưởng của Sa-tan, với sự bình yên, vui vẻ, và một chút an nhàn xác thịt không? Chẳng phải ngươi là hạng người đê tiện nhất trong tất cả sao? Chẳng có ai ngu ngốc hơn những người đã nhìn thấy sự cứu rỗi nhưng không theo đuổi để có được điều đó; đây là những người đã chìm đắm trong xác thịt và thích thú với Sa-tan. Ngươi mong rằng đức tin vào Đức Chúa Trời sẽ không hề có khó khăn gì, không hề có hoạn nạn gì, không hề có thống khổ gì. Ngươi luôn tìm kiếm những thứ vô giá trị và ngươi không coi trọng sự sống, thay vào đó đặt những suy nghĩ ngông cuồng của mình lên trước lẽ thật. Ngươi thật vô giá trị! Ngươi sống như một con lợn – có gì khác giữa ngươi với lợn và chó chứ? Chẳng phải những kẻ yêu xác thịt thay vì kiếm tìm lẽ thật đều là súc vật? Chẳng phải những người chết không có linh hồn đều là những thây ma biết đi? … Ta ban cho ngươi sự sống con người đích thực, nhưng ngươi không mưu cầu. Ngươi không khác gì chó hay lợn sao? Con lợn không tìm kiếm cuộc sống con người, chúng không tìm kiếm việc được làm cho tinh sạch, và chúng không hiểu cuộc đời là gì. Mỗi ngày, chúng chỉ đơn giản ăn no ngủ say. Ta đã cho ngươi con đường nhưng ngươi vẫn chưa đạt được: Ngươi trắng tay. Ngươi có muốn tiếp tục cuộc sống này, cuộc sống của một con lợn không? Những người như vậy sống có ý nghĩa gì? Cuộc sống của ngươi thật đáng khinh và hèn mọn, ngươi sống trong dơ bẩn và phóng túng, và ngươi không theo đuổi bất kỳ mục tiêu nào; chẳng phải cuộc sống của ngươi hèn mọn nhất trong muôn loài? Các ngươi có mặt mũi nào mà nhìn Đức Chúa Trời? Nếu các ngươi tiếp tục sống như vậy, chẳng phải các ngươi sẽ không thu nhận được điều gì sao? Ngươi đã được trao con đường thật nhưng cuối cùng ngươi có thể đạt được điều đó hay không còn tùy vào sự theo đuổi của riêng ngươi(Các kinh nghiệm của Phi-e-rơ: Hiểu biết của ông về hình phạt và sự phán xét, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời tôi hiểu ra rằng, Đức Chúa Trời bày tỏ lời Ngài, chăm tưới, cung ứng con người và cho chúng ta cơ hội thực hiện bổn phận, với hy vọng rằng chúng ta có thể mưu cầu và đạt được lẽ thật trong quá trình thực hiện bổn phận, chuyển hóa tâm tính và được cứu rỗi. Đây là sự tôn cao và ân điển của Đức Chúa Trời. Những người yêu lẽ thật sẽ trân quý cơ hội như thế này, mưu cầu và đạt được lẽ thật trong quá trình thực hiện bổn phận. Nhìn lại mình, tôi hề không yêu lẽ thật, khi gặp khó khăn trong bổn phận, tôi luôn có thái độ chống đối và oán than về hoàn cảnh của mình, cảm thấy mệt mỏi và khổ cực, không sẵn lòng chịu đựng và trả giá, còn muốn rút lui. Vì tôi lười biếng và không sẵn lòng mưu cầu lẽ thật, nên dù có theo Đức Chúa Trời đến cùng cũng không thể đạt được lẽ thật và thay đổi tâm tính, sau cùng sẽ bị đào thải và trừng phạt. Tôi phải ngưng chiều chuộng xác thịt của mình, phải chống lại xác thịt và thực hiện tốt bổn phận. Tôi nhận ra những người mới này có đức tin chưa lâu, chưa có nền tảng vững chắc trên con đường thật, càng chưa hiểu lẽ thật, nên mới rụt rè và sợ hãi. Nếu tôi không trả giá và chịu chút đau khổ để chăm tưới và hỗ trợ họ, những người mới này rất có thể sẽ không trụ nổi, vậy thì tôi đã vi phạm lớn rồi. Bất kể có được tiếp đãi hay không, dù gặp phải hoàn cảnh nào hay chịu khổ ra sao, tôi vẫn sẵn lòng thực hiện bổn phận và hoàn thành trách nhiệm của mình. Hôm đó, mẹ của Nevin ra đồng tìm gặp tôi, nói rằng: “Dân quân đang bắt đầu tuần tra ban đêm. Chị là người từ nơi khác, thường xuyên phải ra vào làng, chúng tôi lo chị sẽ bị họ phát hiện”. Tôi thông công với chị ấy: “Khi Đức Chúa Trời chẩn bị tiêu diệt thành Sô-đôm, người dân ở Sô-đôm muốn hãm hại hai thiên thần được Đức Chúa Trời cử đến. Chỉ có ông Lót sống sót vì đã đón tiếp hai thiên thần đó vào nhà mình. Giờ Đức Chúa Trời đang thực hiện giai đoạn cuối trong công tác cứu rỗi nhân loại. Những kẻ bách hại người tin Đức Chúa Trời cũng tà ác như dân chúng ở thành Sô-đôm. Chị lo lắng cũng là chuyện bình thường, nhưng chúng ta phải có đức tin. Việc dân quân có phát hiện ra chúng tôi hay không đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Chúng ta cần cầu nguyện nhiều hơn, và Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ công tác của chính Ngài. Nếu chị không tiếp đãi chúng tôi, chúng tôi rời đi thì sẽ không thể chăm tưới cho mọi người nữa. Chúng tôi đến để rao giảng phúc âm, nếu chị tiếp đón thì đây sẽ là việc tốt lành được Đức Chúa Trời ghi nhớ”. Tôi nói xong, chị ấy không còn sợ hãi nữa mà rất vui vẻ. Sau đó, chị ấy chăm sóc chu đáo cho chúng tôi, tôi cũng có thể ổn định chỗ ở, thông công với những người mới và tổ chức hội họp cả ngày lẫn đêm. Sau khi hiểu được chút lẽ thật, những người mới đã mời bạn bè và gia đình đến nghe phúc âm. Chỉ trong hai tháng, 120 dân làng đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt. Tôi rất vui mừng khi thấy những người mới này đến nhóm họp, Mặc dù đó là một quá trình khó khăn và tôi cũng phải chịu chút khổ cực, nhưng tôi cảm thấy bình yên khi biết mình đã hoàn thành bổn phận. Nhìn thấy sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, tôi cũng có thêm đức tin.

Sau đó, người phụ trách sắp xếp chúng tôi đi hỗ trợ người mới ở một làng khác. Trước tiên chúng tôi đến nhà một người mới tên John. Trước đây người anh em này tích cực trong việc thực hiện bổn phận, có thể tổ chức nhóm họp cho những người mới trong làng, nhưng sau đó anh không dám dự nhóm họp nữa vì sợ bị bắt. Chúng tôi muốn hỗ trợ cho anh John trước, sau đó thông qua anh ấy mà hỗ trợ những người mới khác. Nhưng John không muốn nói chuyện với chúng tôi. Vợ anh ấy nói: “Tại một buổi họp trong làng, họ bảo chúng tôi đừng nghe rao giảng hay tin Đức Chúa Trời. Dân quân cũng tuần tra ban đêm và bắt bất cứ ai nghe rao giảng. Họ không cho chúng tôi nghe rao giảng, chúng tôi cũng sợ bị bắt, hơn nữa chúng tôi cũng khá bận, không có thời gian nghe”. Nói xong, cô ấy phớt lờ chúng tôi. Thấy người mới này thậm chí không cho chúng tôi cơ hội nói chuyện, còn cố ý tránh mặt, tôi nghĩ nhiệm vụ lần này sẽ rất khó khăn. Đường đến làng thì xa, tới lui rất mệt mỏi, nên tôi ngừng hỗ trợ những người mới và tiếp tục làm các công việc khác. Sau một thời gian, người phụ trách nhắc nhở tôi nếu những người mới bận rộn ban ngày thì tôi có thể đi vào ban đêm. Tôi nghĩ bụng: “Họ đều tránh mặt chúng tôi và không muốn lắng nghe, dù có đi thì tôi cũng chẳng biết phải làm gì. Đường đến làng lại rất xa, đi vào ban đêm càng khó khăn hơn”. Nghĩ đến đây, tôi lại càng không muốn đi. Lúc đó tôi nhận ra rằng mình đang trốn tránh trách nhiệm với người mới khi trì hoãn việc đi rao giảng. Tôi nghĩ đến lời Đức Chúa Trời phơi bày cách làm việc của các lãnh đạo giả. Lời Đức Chúa Trời phán: “Giả sử có một công việc mà một người có thể hoàn thành trong một tháng. Nếu mất nửa năm để thực hiện công việc này, thì năm tháng bị trội lên đó chẳng phải là tổn thất sao? Để Ta cho các ngươi một ví dụ về việc rao truyền phúc âm. Có người sẵn lòng tìm hiểu con đường thật và chỉ cần một tháng là có thể truyền được phúc âm cho họ, rồi họ gia nhập hội thánh và tiếp tục được chăm tưới, cung dưỡng, nửa năm là có thể thiết lập nền tảng. Nhưng nếu thái độ của người rao truyền phúc âm là xem nhẹ và qua quýt, các lãnh đạo và chấp sự cũng không có ý thức trách nhiệm, để rồi cuối cùng mất nửa năm mới truyền được phúc âm cho người đó, thì chẳng phải nửa năm này là tổn thất đối với sự sống của họ sao? Nếu họ gặp đại họa và chưa thiết lập được nền tảng trên con đường thật, thì họ sẽ lâm nguy, như thế chẳng phải ngươi sẽ nợ họ sao? Tổn thất ấy không đo đếm bằng tiền bạc hay vật chất được. Ngươi đã làm chậm trễ việc hiểu lẽ thật của họ nửa năm, ngươi đã làm trì hoãn việc thiết lập nền tảng và thực hiện bổn phận của họ nửa năm. Ai chịu trách nhiệm về việc này? Các lãnh đạo và chấp sự có thể gánh nổi trách nhiệm này được không? Trách nhiệm đối với việc làm chậm trễ sự sống của ai đó không ai gánh nổi. Vì không ai gánh nổi trách nhiệm này, vậy các lãnh đạo và chấp sự nên làm như thế nào mới là phù hợp? Là bốn chữ: Dốc hết sức mình. Dốc hết sức mình để làm gì? Để làm tròn trách nhiệm của chính mình, việc gì mà mắt mình có thể nhìn thấy, trong lòng mình có thể nghĩ đến và tố chất mình có thể đạt tới thì đều làm cho tới nơi tới chốn. Đây là dốc hết sức mình, đây là trung thành và có trách nhiệm, và đây là trách nhiệm mà các lãnh đạo và chấp sự phải làm(Trách nhiệm của lãnh đạo và người làm công (4), Lời, Quyển 5 – Trách nhiệm của lãnh đạo và người làm công). Từ lời Ngài có thể thấy rằng, dù làm bất cứ công việc gì, nếu có thể hoàn thành trong một tháng nhưng cuối cùng lại mất nửa năm mới làm xong, thì đó là một tổn thất vô cùng lớn. Ví dụ như việc rao giảng phúc âm, nếu ai đó sẵn lòng tìm hiểu con đường thật, và người rao giảng làm tròn trách nhiệm thì họ có thể được đưa vào đức tin chỉ trong một tháng và kịp thời vào nhà Đức Chúa Trời Người mới này sẽ hiểu được lẽ thật sớm hơn và bám rễ trên con đường thật. Nếu chúng ta không trả giá khi thực hiện bổn phận của mình, có thái độ xem thường và chiếu lệ, mất nửa năm mới đưa được người đó vào đức tin, thì đây sẽ là tổn thất lớn cho sự sống của họ. Nếu các đại họa xảy ra, mà những người này vẫn chưa tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời, chưa được chăm tưới và cung ứng lẽ thật mà đã chết, thì không ai gánh nổi trách nhiệm cho những cái chết này. Vì vậy, chúng ta không được trì hoãn bổn phận của mình, mà phải cố gắng hết sức hoàn thành trách nhiệm để không phải thẹn với lòng. Nhớ lại khi hỗ trợ những người mới và rao giảng phúc âm, tôi đã không sẵn sàng trả giá hay chịu khổ. Khi người phụ trách sắp xếp tôi đến ngôi làng đó hỗ trợ người mới và rao giảng phúc âm, đường thì xa, khó khăn thì nhiều, tôi lại nuông chiều xác thịt nên không muốn đi, trì hoãn hết ngày này qua ngày khác. Những người mới này rụt rè, sợ hãi và không dám dự các buổi nhóm họp vì bị chính phủ bách hại, họ rất cần được chăm tưới, hỗ trợ để hiểu được lẽ thật và thoát khỏi gông cùm của sự áp bức. Khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, nếu những người này vẫn chưa thoát khỏi các thế lực đen tối, chưa nhóm họp hay lắng nghe lời Đức Chúa Trời, thì họ sẽ không hiểu được lẽ thật, không đạt được sự cứu rỗi của Ngài, và bị nhấn chìm trong thảm họa. Còn nữa, trong làng đó vẫn còn nhiều người chưa nghe được tiếng Đức Chúa Trời. Nếu ai cũng nuông chiều xác thịt như tôi, gặp khó khăn liền từ bỏ rao giảng phúc âm, thì dân làng sẽ không thể nghe tiếng Đức Chúa Trời và tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài. Tôi không thể trì hoãn thêm giây phút nào, và phải gạt đi những lo lắng của mình. Bất kể gặp phải hoàn cảnh nào, tôi cũng phải vượt qua và hoàn thành trách nhiệm của mình.

Sau đó, tôi nghĩ đến một đoạn khác trong lời Đức Chúa Trời: “Là một loài thọ tạo, là một trong những người đi theo Đức Chúa Trời, bất kể tuổi tác, giới tính, dù trẻ hay già đến đâu, thì việc rao truyền phúc âm cũng là một sứ mạng và chức trách mà mỗi người đều phải tiếp nhận. Nếu sứ mạng này đến với ngươi và đòi hỏi người phải dâng mình, trả giá, hoặc thậm chí hy sinh tính mạng, thì ngươi nên làm gì? Nên tiếp nhận không chút thoái thác. Đây là lẽ thật, là điều ngươi nên hiểu. Đây không phải là một câu đạo lý đơn giản – mà là lẽ thật. Tại sao Ta lại phán đây là lẽ thật? Bởi vì dù thời gian thay đổi ra sao, thời đại đổi dời thế nào, hay nơi chốn và không gian thay đổi thế nào, thì việc rao truyền phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời mãi mãi là điều tích cực. Ý nghĩa và giá trị của nó là bất biến: nó tuyệt đối sẽ không thay đổi vì thời gian hay vị trí địa lý thay đổi. Việc rao truyền phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời là tồn tại đời đời, và mọi loài thọ tạo đều nên tiếp nhận và thực hành việc này. Đây là lẽ thật đời đời(Mục 1. Họ làm lung lạc lòng người, Lời, Quyển 4 – Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). Lời Đức Chúa Trời khiến tôi vô cùng cảm động. Nhờ ân điển của Đức Chúa Trời mà hôm nay tôi nghe được tiếng Ngài. Rao giảng phúc âm và chăm tưới những người mới là trách nhiệm và bổn phận mà tôi phải hoàn thành. Khi cần phải chịu đau khổ và trả giá, tôi nên chấp nhận một cách vô điều kiện. Bất kể khó khăn thế nào hay gặp hoàn cảnh ra sao, tôi cũng phải thuận phục và hoàn thành trách nhiệm. Hiểu được điều này, tôi đã một mình đi đến ngôi làng. Khi tôi khởi hành thì trời đã tối và bắt đầu mưa, tôi vừa bước đi vừa cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Sau đó, tôi tình cờ gặp được một bà già trên đường. Tôi nói mình đang trên đường đến làng của bà ấy, nên chúng tôi đi bộ theo sau nhau. Khi về đến làng thì tôi không thấy bà cụ đâu nữa. Vì trời đã tối, bản thân thì không quen đường, tôi không biết phải đi đâu nên đành ngồi bên lề đường, cảm thấy khá lo lắng, sợ gặp dân quân tuần tra ban đêm thì không biết phải nói thế nào. Tôi không ngừng kêu cầu Đức Chúa Trời trong lòng. Đúng lúc đó, có một người phụ nữ vừa đi làm đồng án về, thấy tôi ngồi một mình bên lề đường liền hỏi: “Sao chị lại ngồi đây? Hay là về nhà tôi đi”. Tôi theo chị ấy về nhà, rao giảng phúc âm cho chị ấy và chị ấy tiếp nhận. Sau đó, chị ấy còn đưa những người khác đến nghe. Khi mọi người nghe nói tôi đang rao giảng phúc âm, họ đích thân đến gặp và mời tôi đến nhà họ rao giảng. Tôi làm chứng với họ về công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng vào thời kỳ sau rốt, nghe xong họ đều rất vui mừng. Có người nói: “Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm, là Đức Chúa Trời duy nhất. Chúng ta phải tiếp tục nghe lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng!”. Có người thì bảo: “Dù bị chính phủ bách hại, chúng ta vẫn phải tiếp tục lắng nghe!”. Có những người mới rất nhiệt tình tham gia nhóm họp, đến dự cả ngày lẫn đêm, thực sự khao khát và mong muốn tụ họp để nghe rao giảng. Tôi khá ngạc nhiên về chuyện này. Trước đây, tôi luôn nuông chiều xác thịt của mình, không sẵn lòng chịu khổ và trả giá, nhưng khi xoay chuyển tình trạng của bản thân và sẵn lòng phối hợp, tôi nhận ra những điều Đức Chúa Trời làm vượt quá sức tưởng tượng của con người. Chỉ thông qua một người phụ nữ mà chúng tôi đã có thể rao giảng phúc âm trong khắp ngôi làng, đó là dấu hiệu cho thấy Đức Chúa Trời đang thực hiện công tác của Ngài. Tôi nhìn thấy thẩm quyền của Ngài và càng quyết tâm rao giảng phúc âm. Sau khoảng một tháng, chúng tôi đã rao giảng phúc âm cho toàn bộ ngôi làng. Những người mới trước đó còn sợ bị bắt, nay hầu hết đều đã quay lại tham gia nhóm họp. Trong làng có hơn 80 người thường xuyên nhóm họp, đủ để thành lập một hội thánh. Tôi vô cùng cảm tạ Đức Chúa Trời!

Thông qua trải nghiệm này, tôi nhận ra thái độ thực hiện bổn phận là rất quan trọng. Khi tôi thuận phục và quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, thì dù công việc có khó khăn đến đâu, chỉ cần chân thành phối hợp thì sẽ nhìn thấy sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Dù đã bộc lộ sự bại hoại, tiêu cực, yếu đuối và muốn thoái lui, nhưng nhờ sự dẫn dắt và cung ứng từ lời Đức Chúa Trời, tôi đã không từ bỏ việc rao giảng phúc âm và không khiến mình hối tiếc. Đây là sự bảo vệ của Đức Chúa Trời. Sau trải nghiệm này, tôi đã có thêm đức tin và đạt được chút ít tiến bộ trong sự sống. Tạ ơn Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger