Thành quả của việc Chia sẻ Phúc âm
Bởi Sơ Tâm, Hàn Quốc Một thời gian trước, tôi đã gặp một nữ Cơ Đốc nhân người Philippines trên mạng tên là Teresa. Tìm hiểu về chị ấy, tôi...
Hoan nghênh tất cả những người tìm kiếm sự xuất hiện của Đức Chúa Trời!
Trước đây, khi tin Đức Chúa Jêsus, tôi thường đọc Kinh Thánh và truyền bá phúc âm của Chúa. Sau khi tin Đức Chúa Trời Toàn Năng và đọc lời Ngài, tôi đã biết được Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ lẽ thật trong thời kỳ sau rốt để thực hiện công tác phán xét con người – để làm tinh sạch và cứu rỗi họ. Vì vậy, tôi đã tích cực hơn trong bổn phận truyền bá phúc âm của mình. Thông qua thực hành, tôi đã hiểu rõ hơn về lẽ thật của việc làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời, nắm bắt các nguyên tắc rao giảng phúc âm và tích lũy được một số kinh nghiệm, nên việc rao giảng của tôi khá hiệu quả. Các anh chị em đều nói tôi thực sự giỏi truyền bá phúc âm, có thể nắm bắt được quan niệm của các đối tượng phúc âm và thông công để giải quyết chúng. Những vấn đề mà họ thấy khó khăn đều được tôi giải quyết dễ dàng. Sau đó, khi đang rao giảng phúc âm, tôi đã bị cảnh sát bắt và kết án một năm tù. Sau khi ra tù, tôi nhanh chóng bắt đầu tiếp tục rao giảng. Có nhiều anh chị em chỉ vừa mới học cách rao giảng phúc âm và không đạt được kết quả tốt, nên lãnh đạo đã giao cho tôi phụ trách công tác phúc âm. Tôi đã phân tích một số quan niệm thường thấy của các đối tượng phúc âm với các anh chị em, và giải thích cách thông công để giải quyết những quan niệm ấy. Đôi khi chúng tôi gặp những đối tượng phúc âm có nhiều quan niệm tôn giáo, và các anh chị em đã thông công với họ nhiều lần mà không hiệu quả. Nhưng khi tôi đến thông công với họ, thì liền nhanh chóng giải quyết được các quan niệm của họ. Theo thời gian, công tác phúc âm của hội thánh chúng tôi ngày càng đạt được kết quả tốt hơn. Và, dần dần, tôi bắt đầu ngưỡng mộ bản thân. Tôi nghĩ mình thực sự có tố chất cao, và có thể dễ dàng giải quyết các vấn đề mà những anh chị em khác không thể. Tôi nghĩ mình là một tài năng hiếm có, và bắt đầu ngày càng đánh giá cao bản thân. Tôi khinh thường người khác vì sự lơ là và tố chất kém của họ.
Có lần, một người chị em chăm tưới cho người mới đã đến gặp tôi. Chị ấy nói có một thành viên mới đã nêu ra một số câu hỏi, và muốn tôi cùng chị ấy thông công với người mới đó để giải quyết. Tôi đã rất khó chịu với chị ấy. Tôi nghĩ: “Vấn đề đơn giản như vậy mà chị cũng không giải quyết được sao? Có phải chị đã lơ là bổn phận, không mang gánh nặng không? Tố chất của chị kém đến mức thậm chí không thể giải quyết các quan niệm của một người mới ư?”. Vậy nên tôi mắng chị ấy rằng: “Một người mới mà cũng không chăm tưới được, vậy thì chị còn có ích gì?”. Nghe tôi nói xong, chị ấy chỉ biết cúi đầu, không nói gì. Nước mắt chị ấy rơi lã chã. Lúc đó, tôi biết nói như vậy là không đúng. Nhưng tôi nghĩ: “Nếu mình không cứng rắn, chị ấy sẽ không để tâm, và sẽ không tiến bộ được”. Sau đó, chị ấy đã không dám đến gặp tôi khi gặp rắc rối nữa. Chị ấy trở nên tiêu cực và cảm thấy bị kìm kẹp. Chị ấy cảm thấy tố chất của mình quá kém để thực hiện bổn phận và chăm tưới cho người mới. Tôi biết cảm giác của chị ấy, nhưng lại không tự phản tỉnh, cũng không thông công hay cố giúp đỡ chị ấy. Trong thâm tâm, tôi coi thường chị ấy: “Mấy vấn đề đơn giản như thế cũng không giải quyết nổi, để chị ấy làm công tác này chẳng phải sẽ khiến công việc trì trệ sao?”. Vì vậy sau đó, tôi không cho chị ấy chăm tưới người mới đó nữa. Một lần khác, tôi và một lãnh đạo hội thánh tổ chức một buổi nhóm họp dành cho những người mới. Nhưng sau khi chị lãnh đạo thông công, vấn đề của những người mới vẫn không được giải quyết. Tôi nghĩ: “Chị là lãnh đạo, vậy mà thậm chí còn không thể chăm tưới cho người mới”. Vì vậy, tôi đã chủ động hỏi họ: “Mọi người có hiểu những gì chị ấy vừa nói không?”. Họ lắc đầu và nói rằng họ vẫn chưa hiểu rõ. Sau đó, tôi đã nói chuyện với họ rất lâu về ba giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời. Họ vui vẻ lắng nghe, và nhiều người trong số họ đã nói: “Giờ chị nói như vậy thì chúng tôi hiểu rồi”. Thấy họ có thái độ như vậy đối với mình, tôi cảm thấy rất vui. Tôi cảm thấy mình giỏi rao giảng phúc âm và chăm tưới hơn vị lãnh đạo đó.
Sau đó, tôi liên tục thể hiện bản thân và coi thường người khác. Tâm tính của tôi ngày càng trở nên kiêu ngạo. Vấn đề gì liên quan đến công việc, dù lớn hay nhỏ, tôi cũng bắt mọi người làm theo ý mình. Tôi nghĩ mình giỏi hơn các anh chị em, và dù có thảo luận với họ thì cuối cùng mọi chuyện cũng tùy thuộc vào tôi thôi, nên tôi tự đưa ra quyết định luôn để tránh lãng phí thời gian. Với công tác rao giảng và chăm tưới, tôi cảm thấy mọi người đều kém hơn mình, nên tốt hơn là tôi tự làm hết cho rồi. Vì vậy, tôi bắt đầu vừa rao giảng vừa chăm tưới cùng một lúc. Tôi tự mình đảm nhận đủ thứ việc. Tôi bận tối tăm mặt mũi, đến mức chẳng lúc nào ngơi nghỉ. Nhưng rồi lãnh đạo phát hiện tôi chẳng đào tạo được ai cả, rằng tôi không để cho người khác thực hành, nên chị ấy đã tỉa sửa tôi. Chị ấy nói: “Việc lớn việc nhỏ gì chị cũng ôm đồm, tự làm một mình. Chị không nghĩ như vậy là kiêu ngạo sao?”. Ngay cả khi bị tỉa sửa và khiển trách, tôi cũng nghĩ đó chỉ là chuyện nhỏ. Mỗi ngày, từ sáng đến tối, tôi đều cảm thấy bận rộn trong việc rao giảng và chăm tưới cho người mới. Điều này cho tôi thấy, đây là mang gánh nặng đối với bổn phận. Tôi cũng nghĩ mình có tố chất và năng lực làm việc tốt, và rằng chỉ cần đạt được kết quả, thì sự kiêu ngạo của tôi không phải là vấn đề. Sau đó, tôi tiếp tục làm việc theo cách của mình. Bất cứ vấn đề gì phát sinh, tôi đều tự giải quyết mà không thảo luận với người khác. Một số anh chị em cảm thấy bị kìm kẹp. Họ nghĩ mình không đủ giỏi và sống trong trạng thái tiêu cực. Một số khác thì đặc biệt phụ thuộc vào tôi. Họ không mang bất kỳ gánh nặng nào trong bổn phận, luôn chờ tôi chỉ dẫn, điều này ảnh hưởng đến công tác phúc âm và chăm tưới. Không lâu sau, tôi bắt đầu bị chảy nước mắt mãn tính. Đôi khi tệ đến mức tôi không nhìn thấy gì. Bác sĩ nói ống lệ của tôi bị tắc và cần phải phẫu thuật. Trong khi đang đi bộ về nhà, tôi bắt đầu nghĩ: “Đột nhiên mình mắc bệnh về mắt, đằng sau chuyện này chắc hẳn có tâm ý của Đức Chúa Trời. Liệu có khi nào mình đã vô tình xúc phạm Đức Chúa Trời không?”. Đó là lúc tôi bắt đầu suy ngẫm về cái cách mà mình đã thực hiện bổn phận. Tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài khai sáng để tôi có thể hiểu được vấn đề của mình.
Khi về nhà, tôi đọc được lời này của Đức Chúa Trời: “Một số người khi đã làm chút việc và lãnh đạo một hội thánh khá tốt thì nghĩ rằng họ vượt trội hơn những người khác, và thường rêu rao những lời như: ‘Tại sao Đức Chúa Trời lại trọng dụng tôi? Tại sao Ngài cứ nhắc đến tên tôi? Tại sao Ngài cứ nói chuyện với tôi? Đức Chúa Trời đánh giá cao tôi vì tôi có tố chất và vì tôi hơn những người tầm thường. Các người thậm chí còn ghen tị vì Đức Chúa Trời đối xử tốt hơn với tôi. Các người có gì để ghen tị chứ? Các người không thấy được tôi làm nhiều việc và trả giá nhiều như thế nào sao? Các người không nên ghen tị với bất cứ điều gì tốt đẹp mà Đức Chúa Trời ban cho tôi, đó là thứ tôi đáng được có. Tôi đã làm việc nhiều năm và chịu khổ rất nhiều. Tôi có công lao và tôi có vốn liếng’. Cũng có những người nói: ‘Đức Chúa Trời cho phép tôi tham gia các cuộc họp đồng sự và nghe thông công của Ngài. Tôi có vốn liếng này, các người có không? Thứ nhất, tôi có tố chất cao và tôi mưu cầu lẽ thật nhiều hơn các người. Hơn nữa, tôi dâng mình nhiều hơn các người và tôi có thể giải quyết được công việc của hội thánh, các người có thể không?’. Đây là sự kiêu ngạo. Kết quả thực hiện bổn phận và công tác của mỗi người mỗi khác. Một số người có kết quả tốt, trong khi những người khác thì có kết quả kém. Một số người bẩm sinh có tố chất tốt và cũng có thể tìm kiếm lẽ thật, vì vậy kết quả thực hiện bổn phận của họ được cải thiện nhanh chóng. Đây là do tố chất tốt của họ, là điều được Đức Chúa Trời định trước. Nhưng làm thế nào để giải quyết vấn đề kết quả kém khi thực hiện bổn phận? Ngươi phải liên tục tìm kiếm lẽ thật và không ngừng nỗ lực, khi đó, ngươi cũng có thể dần dần đạt được những kết quả tốt. Miễn là ngươi phấn đấu vì lẽ thật và làm hết khả năng của mình thì Đức Chúa Trời sẽ chấp thuận. Nhưng bất kể kết quả công việc của ngươi có tốt hay không, ngươi cũng không nên có những ý tưởng sai trái. Đừng nghĩ rằng, ‘Tôi có vốn liếng để đứng ngang hàng với Đức Chúa Trời’, ‘Tôi có vốn liếng để tận hưởng những gì Đức Chúa Trời đã ban cho tôi’, ‘Tôi có vốn liếng khiến Đức Chúa Trời khen ngợi tôi’, ‘Tôi có vốn liếng để lãnh đạo người khác’ hay ‘Tôi có vốn liếng để lên lớp người khác’. Đừng nói rằng ngươi có vốn liếng. Con người không nên có những suy nghĩ này. Nếu ngươi thực sự có những suy nghĩ này thì chứng tỏ ngươi đang không ở đúng vị trí của mình, và ngươi không có cả lý trí tối thiểu mà con người nên có. Vậy ngươi làm sao có thể loại bỏ tâm tính kiêu ngạo của mình? Không cách nào loại bỏ được” (Bản tính kiêu ngạo nằm ở gốc rễ sự chống đối Đức Chúa Trời của con người, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã vạch rõ tình trạng của tôi. Tôi nhận ra hành vi của mình đã bị bản tính kiêu ngạo chi phối. Khi đạt được kết quả tốt trong công tác rao giảng và chăm tưới, tôi cảm thấy mình giỏi giang. Tôi nghĩ khả năng và tố chất của mình rất tốt, rằng tôi là người không thể thiếu trong công tác phúc âm. Tôi đã xem những kỹ năng này là vốn liếng, và kiêu ngạo đến mức coi thường mọi người. Tôi hành động như thể mình ở trên người khác, giáo huấn và kìm kẹp họ. Khi người chị em của tôi gặp khó khăn trong việc chăm tưới cho người mới, tôi đã không giúp chị ấy giải quyết vấn đề, mà chỉ sử dụng địa vị của mình để khiển trách chị ấy. Lúc cùng lãnh đạo chăm tưới cho người mới, khi chị ấy không giải quyết được vấn đề của họ, tôi chẳng những đã không phối hợp thông công, mà còn coi thường chị ấy, và cố tình làm chị ấy mất mặt trước những người mới đó. Khi có vấn đề phát sinh trong công việc, tôi đã không tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật hoặc thảo luận với các anh chị em. Tôi nghĩ mình đã có kinh nghiệm để nhìn thấu đáo mọi thứ, rằng mình có thể tự quyết định và lo liệu tất cả. Tôi không cho bất kỳ ai khác cơ hội để thực hành, và ngay cả khi bị tỉa sửa, tôi cũng không coi đó là vấn đề. Tôi nghĩ mình đang mang gánh nặng trong bổn phận. Tôi cho rằng mình có thâm niên và không chấp nhận bị tỉa sửa. Tôi thực sự quá kiêu ngạo. Trong thâm tâm, tôi không kính sợ hay vâng phục Đức Chúa Trời. Là người phụ trách công tác phúc âm, lẽ ra tôi cũng phải đào tạo các anh chị em rao giảng phúc âm. Nhưng thay vào đó, tôi khinh rẻ, coi thường họ, và tự mình làm mọi việc. Kết quả là, họ cảm thấy bị tôi kìm kẹp, một số người thì phụ thuộc hết vào tôi, không thể mang gánh nặng trong bổn phận của họ, công tác phúc âm vì thế đã bị ảnh hưởng. Đây không phải là thực hiện bổn phận, đây là đang hành ác, và cản trở công tác phúc âm. Trước đây, tôi cho rằng tự mình làm mọi việc tức là đang mang gánh nặng trong bổn phận. Nhưng thực ra, tôi chỉ đang kiêu ngạo. Tôi đã đặt mình lên trên người khác, coi thường họ và nắm quyền kiểm soát mọi thứ, hành động tùy tiện theo ý mình với tâm tính kiêu ngạo mà không nghĩ đến Đức Chúa Trời hay người khác. Chẳng phải đây là tâm tính của thiên sứ trưởng sao? Nếu không ăn năn, tôi sẽ bị Đức Chúa Trời ghét bỏ và đào thải. Nghĩ vậy, tôi nhận ra Đức Chúa Trời đang sửa phạt và sửa dạy tôi bằng căn bệnh này. Nếu Đức Chúa Trời không sắp đặt hoàn cảnh này cho tôi, tôi sẽ tiếp tục hành động theo tâm tính kiêu ngạo của mình. Tôi sẽ tiếp tục hành ác, xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời và phải chịu sự trừng phạt. Khi nhận ra điều này, tôi đã khóc và cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Con quá kiêu ngạo đến mức không có nhân tính hay lý trí. Con không xứng đáng sống trước Ngài. Đức Chúa Trời ơi! Con không muốn chống đối hay phản nghịch Ngài. Con muốn ăn năn!”. Sau đó, tôi đã chia sẻ công khai tình trạng của mình với các anh chị em. Tôi đã vạch trần và mổ xẻ cách mà tâm tính kiêu ngạo của mình gây ra tổn hại cho họ, và đã xin lỗi họ. Sau đó, tôi trở nên khiêm nhường hơn trong khi thực hiện bổn phận. Tôi đã thảo luận mọi việc với các anh chị em, và chẳng mấy chốc, bệnh của tôi đã khỏi. Từ tận đáy lòng, tôi cảm tạ Đức Chúa Trời.
Sau một thời gian, do nhu cầu của công tác phúc âm, hội thánh đã giao cho tôi truyền bá phúc âm ở một địa điểm khác. Nhưng tôi lại không khỏi bắt đầu tự ngưỡng mộ bản thân: “Có vẻ mình đã truyền bá phúc âm rất tốt. Nếu không, tại sao họ lại cử mình đi nơi khác để truyền bá phúc âm chứ?”. Một ngày nọ, tôi đi rao giảng phúc âm cho hai tín đồ tôn giáo. Tôi nghĩ chuyện đó chẳng có gì khó cả, nên đã không cố tìm hiểu trước tình hình hoặc các quan niệm chủ yếu của họ. Thay vào đó, tôi đã làm như trước đây, đó là trực tiếp làm chứng về ba giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời. Ngay khi nghe điều này, họ biết tôi là người tin Đức Chúa Trời Toàn Năng, và vì vậy họ đã cảnh giác. Họ không muốn nghe thêm bất cứ điều gì nữa. Lúc đó, tôi như chết lặng. Tôi đã đi cả chặng đường dài để đến đây, và nghĩ rằng mình có thể nhanh chóng mở rộng công tác phúc âm, chứ không bao giờ nghĩ mình sẽ thất bại sớm như vậy. Giờ làm sao tôi có thể mở rộng công tác phúc âm đây? Tuy nhiên, lúc đó, tôi vẫn chưa muốn từ bỏ ngay. Có lẽ đó chỉ là vấn đề nhất thời, và tôi chỉ làm hỏng chuyện lần này thôi. Tôi đã truyền bá phúc âm rất nhiều năm, vì vậy tôi chắc chắn mình có thể thu phục được mọi người. Nhưng đi đến đâu tôi cũng đều thất bại. Tôi cảm thấy rất thất vọng và chán nản. Sau đó, tôi đã bị cách chức. Nghĩ đến kết quả rao giảng tồi tệ của mình, tôi rất đau lòng. Tôi cảm thấy mình vô dụng. Nếu cứ tiếp tục như thế, chẳng phải tôi sẽ bị đào thải sao? Tôi nhớ những ngày mình say mê rao giảng phúc âm. Mặc dù công việc có khó khăn và mệt mỏi, nhưng tôi đã rất vui khi đạt được kết quả tốt. Sao giờ tôi lại không thể đạt được những kết quả đó? Nghĩ đến chuyện này, lòng tôi đau đớn và khó chịu không thể tả. Trong cơn đau khổ, tôi đã liên tục cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Con cần rút ra bài học gì từ hoàn cảnh này? Xin Ngài hãy khai sáng cho con, và dẫn dắt con hiểu được chính mình”.
Trong khi tìm kiếm, tôi đã thấy đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Khi ai đó có ân tứ hoặc sở trường, điều đó có nghĩa rằng họ bẩm sinh giỏi hoặc có sở trường trong một khía cạnh nào đó hơn so với người khác. Chẳng hạn như ngươi có thể phản ứng nhanh hơn người khác một chút, lĩnh hội nhanh hơn người khác một chút, có thể nắm bắt một số kỹ năng nghiệp vụ, hoặc có thể là người diễn thuyết hùng biện, v.v.. Đây là những ân tứ và sở trường của con người. Nếu ngươi có những sở trường và thế mạnh trong một khía cạnh nào đó, thì cách ngươi biết và tiếp cận chúng rất quan trọng. Nếu ngươi cho rằng sở trường và ân tứ của mình là không ai có thể thay thế được, rằng việc ngươi thực hiện bổn phận bằng ân tứ và sở trường của mình chính là đang thực hành lẽ thật, thì quan điểm này đúng hay sai? (Thưa, sai.) Tại sao ngươi nói là sai? Rốt cuộc thì sở trường và ân tứ là gì? Ngươi nên hiểu, sử dụng và tiếp cận chúng như thế nào? Thực tế là dù ngươi có ân tứ hay sở trường nào đi nữa, nó cũng không đồng nghĩa với việc ngươi có lẽ thật và sự sống. Nếu con người có những ân tứ và tài năng trong khía cạnh nào thì họ cũng sẽ thích hợp thực hiện bổn phận trong khía cạnh đó, nhưng nó không đồng nghĩa với việc họ đang thực hành lẽ thật, cũng không đồng nghĩa với việc họ đang hành sự theo nguyên tắc. Chẳng hạn như nếu ngươi có ân tứ thiên bẩm là ca hát, thì khả năng ca hát của ngươi có tương ứng với thực hành lẽ thật không? Nó có đồng nghĩa với việc ngươi hát theo nguyên tắc không? Không. Ví dụ: giả sử ngươi có tài năng thiên bẩm về ngôn từ và giỏi viết lách. Nếu ngươi không hiểu lẽ thật, thì những thứ ngươi viết ra có thể phù hợp với lẽ thật được không? Nó có đồng nghĩa với việc ngươi có chứng ngôn trải nghiệm không? (Thưa, không.) Do đó, ân tứ và sở trường khác với lẽ thật, không thể đánh đồng. Cho dù ngươi có ân tứ gì đi nữa, nếu không mưu cầu lẽ thật, ngươi sẽ không thực hiện tốt bổn phận được. Có những người hay phô trương ân tứ và thường cảm thấy mình giỏi hơn người khác, thế là họ xem thường người khác và không sẵn lòng hợp tác với người khác khi thực hiện bổn phận. Họ luôn muốn là người quyết định, và kết quả là họ thường xuyên đi ngược lại với nguyên tắc khi thực hiện bổn phận, hiệu quả công việc cũng rất kém. Ân tứ đã khiến họ kiêu ngạo và tự nên công chính, khiến họ xem thường người khác, khiến họ luôn cảm thấy mình giỏi hơn người, không ai giỏi bằng mình, vì thế mà trở nên tự mãn. Chẳng phải những người này bị hủy hoại bởi ân tứ của mình sao? Sự thật chính là như vậy. Người có ân tứ và sở trường dễ trở nên kiêu ngạo và tự nên công chính nhất. Nếu họ không mưu cầu lẽ thật và luôn sống dựa vào ân tứ của mình thì rất nguy hiểm. Cho dù con người thực hiện bổn phận nào trong nhà Đức Chúa Trời, cho dù họ sở trường ở khía cạnh nào, nếu không mưu cầu lẽ thật, chắc chắn họ sẽ không làm tốt bổn phận được. Con người có ân tứ và sở trường ở khía cạnh nào thì phải thực hiện tốt bổn phận ở khía cạnh đó. Nếu họ cũng có thể hiểu lẽ thật và đạt đến việc hành sự theo nguyên tắc, thì ân tứ và sở trường của họ sẽ phát huy vai trò trong khi thực hiện bổn phận đó. Người không tiếp nhận lẽ thật và không tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, mà chỉ dựa vào ân tứ của mình để hành sự sẽ không đạt được kết quả gì khi thực hiện bổn phận và có nguy cơ bị đào thải. … Những người có ân tứ và sở trường cho rằng mình rất thông minh, mình hiểu mọi thứ – nhưng họ không biết rằng ân tứ và sở trường không đại diện cho lẽ thật, không liên quan gì đến lẽ thật. Khi con người hành động dựa vào ân tứ và tưởng tượng của mình, thì cách nghĩ và quan điểm của họ thường đi ngược lại lẽ thật – nhưng họ lại không thể nhìn thấu điều này, mà vẫn nghĩ rằng: ‘Thấy tôi thông minh chưa, sự lựa chọn của tôi sáng suốt biết mấy! Sự quyết đoán của tôi thật anh minh! Mấy người làm sao đủ trình độ’. Họ mãi sống trong tình trạng tự luyến và tự đề cao mình. Họ rất khó lắng lòng và suy ngẫm xem Đức Chúa Trời yêu cầu gì nơi họ, lẽ thật là gì và các nguyên tắc lẽ thật là gì. Vì thế, họ rất khó hiểu được lẽ thật, và cho dù thực hiện bổn phận thì họ cũng không thể thực hành lẽ thật, nên cũng rất khó bước được vào thực tế lẽ thật. Tóm lại, nếu con người không thể mưu cầu lẽ thật và tiếp nhận lẽ thật, thì dù có ân tứ hay sở trường nào đi nữa, họ cũng không thể thực hiện tốt bổn phận được – đây là điều chắc chắn, không thể nghi ngờ” (Chính xác thì con người dựa vào điều gì để sống?, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu rằng có tài năng và ân tứ đặc biệt không có nghĩa là có lẽ thật. Nếu không hiểu lẽ thật, hoặc thực hiện bổn phận mà không tìm kiếm các nguyên tắc, mà luôn dùng tài năng, ân tứ làm vốn liếng, thì ta sẽ ngày càng trở nên kiêu ngạo. Tôi nhận ra rằng, kể từ khi bắt đầu bổn phận, tôi đã sống bằng những ân tứ của mình. Tôi hiểu rõ Kinh thánh và có kinh nghiệm rao giảng phúc âm, nên tôi lấy những điều này làm vốn liếng, và ngày càng trở nên kiêu ngạo. Tôi coi thường người khác, đối xử với mọi người như thể họ chẳng là gì cả. Thấy tôi kiêu ngạo, lãnh đạo đã tỉa sửa tôi, nhưng tôi không chịu tiếp nhận. Tôi vẫn dùng ân tứ của mình làm vốn, và từ chối khuyến nghị của chị ấy. Khi rao giảng ở nơi khác, tôi không tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật. Tôi dựa vào ân tứ và kinh nghiệm của mình, cố gắng đạt được những điều lớn lao. Kết quả là, tôi đã thất bại hết lần này đến lần khác. Nhưng ngay cả khi đó, tôi cũng không nghĩ thái độ của mình là vấn đề. Tôi đã không chịu phản tỉnh. Tôi đã vô liêm sỉ nghĩ rằng có ân tứ và kinh nghiệm là mình có thể làm tốt bổn phận thôi. Tôi đã quá kiêu ngạo và thiếu lý trí. Tôi nghĩ đến Phao-lô, ông có ân tứ, thông minh và có tài hùng biện. Ông có kiến thức uyên thâm về Kinh Thánh, rất giỏi trong việc rao giảng phúc âm và cải đạo mọi người. Nhưng ông đã xem tất cả những điều đó như vốn liếng. Tâm tính của ông ngày càng kiêu ngạo, và còn coi thường người khác. Ông tuyên bố mình không đứng sau các sứ đồ, và chỉ làm việc vì phần thưởng cũng như mão miện. Ông thậm chí còn tuyên bố mình sống là Đấng Christ. Và cuối cùng, ông đã bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Câu chuyện của ông chứng tỏ rằng có ân tứ không có nghĩa là sở hữu thực tế lẽ thật. Nếu không mưu cầu lẽ thật, tâm tính bại hoại sẽ không thay đổi, và ta sẽ bị tỏ lộ, đào thải. Sau đó, tôi đã đọc được một đoạn lời khác của Đức Chúa Trời, và đoạn lời này đã giúp tôi hiểu rõ thêm đôi chút. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Trong quá trình thực hiện bổn phận của mình, các ngươi có thể ý thức được sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời và sự khai sáng của Đức Thánh Linh không? (Thưa, có.) Nếu các ngươi có thể ý thức được công tác của Đức Thánh Linh mà vẫn luôn đánh giá cao bản thân mình, nghĩ mình sở hữu sự thực tế, thì điều gì đang xảy ra ở đây? (Thưa, khi việc thực hiện bổn phận có được thành quả nào đó, con người sẽ nghĩ rằng một nửa công lao thuộc về Đức Chúa Trời, và một nửa thuộc về con người. Con người khi đó sẽ phóng đại sự hợp tác của mình đến mức không giới hạn, nghĩ rằng không có gì quan trọng hơn sự hợp tác của con người, và rằng sự khai sáng của Đức Chúa Trời sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự hợp tác này.) Vậy tại sao Đức Chúa Trời lại khai sáng cho ngươi? Đức Chúa Trời cũng có thể khai sáng cho những người khác chứ? (Thưa, có.) Khi Đức Chúa Trời khai sáng cho ai đó, đây là nhờ ân điển của Đức Chúa Trời. Và chút hợp tác đó từ phía ngươi là gì? Đó có phải là công trạng của ngươi – hay đó là bổn phận và trách nhiệm của ngươi? (Thưa, là bổn phận và trách nhiệm của chúng con.) Khi ngươi nhận ra rằng đó là bổn phận và trách nhiệm của ngươi, thì ngươi có tâm thái đúng đắn, và ngươi sẽ không có ý nghĩ cố gắng tranh công. Nếu ngươi luôn nghĩ rằng: ‘Đây là sự đóng góp của tôi. Liệu sự khai sáng của Đức Chúa Trời có thể hiệu quả không nếu không có sự hợp tác của tôi? Việc này cần sự hợp tác của con người; sự hợp tác của con người chiếm phần lớn thành quả’, vậy thì ngươi sai rồi. Làm sao ngươi có thể hợp tác nếu Đức Thánh Linh không khai sáng ngươi, và nếu không ai thông công các nguyên tắc lẽ thật cho ngươi? Ngươi sẽ không biết những gì Đức Chúa Trời yêu cầu, ngươi cũng sẽ không biết con đường thực hành. Ngay cả khi ngươi muốn thuận phục Đức Chúa Trời và hợp tác, ngươi cũng sẽ không biết cách. Chẳng phải ‘sự hợp tác’ này của ngươi chỉ là những lời sáo rỗng sao? Nếu không có sự hợp tác thực sự, ngươi chỉ hành động theo những ý tưởng của mình – trong trường hợp đó, liệu bổn phận mà ngươi thực hiện có thể đạt chuẩn không? Tuyệt đối không, điều này chỉ ra một vấn đề ngay trước mắt. Vấn đề đó là gì? Bất kể một người thực hiện bổn phận gì, việc họ có đạt được kết quả hay không, thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn hay không, và có được sự chấp thuận của Đức Chúa Trời hay không, đều phụ thuộc vào những hành động của Đức Chúa Trời. Ngay cả khi ngươi hoàn thành trách nhiệm và bổn phận của mình, nếu Đức Chúa Trời không hoạt động, nếu Đức Chúa Trời không khai sáng và hướng dẫn ngươi, thì ngươi sẽ không biết con đường của mình, phương hướng của mình, hoặc những mục tiêu của mình. Rốt cuộc thì nó dẫn đến điều gì? Sau khi lao nhọc suốt thời gian đó, ngươi sẽ không thể làm tròn bổn phận, cũng không đạt được lẽ thật và sự sống – tất cả sẽ thành vô ích. Do đó, việc bổn phận của ngươi được thực hiện theo tiêu chuẩn, mang tính xây dựng cho các anh chị em và đạt được sự chấp thuận của Đức Chúa Trời đều phụ thuộc vào Đức Chúa Trời! Con người chỉ có thể làm những việc mà cá nhân họ có khả năng, những việc mà họ phải làm, và những việc nằm trong khả năng vốn có của họ – chỉ thế thôi. Do đó, cuối cùng thì, việc thực hiện bổn phận của ngươi sao cho hiệu quả phụ thuộc vào sự hướng dẫn của lời Đức Chúa Trời và sự khai sáng cũng như sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh; chỉ khi đó ngươi mới hiểu được lẽ thật và hoàn thành sự ủy nhiệm của Đức Chúa Trời theo con đường mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi và các nguyên tắc mà Ngài đã đặt ra. Đây là ân điển và phước lành của Đức Chúa Trời, và nếu người ta không thấy được thế, thì họ mù rồi” (Nguyên tắc nên có trong hành xử, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đọc lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng những kết quả mà tôi có được khi rao giảng phúc âm và chăm tưới cho người mới không phải là công lao và vốn liếng tôi. Đó là nhờ ân điển của Đức Chúa Trời và sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh. Nếu lời Đức Chúa Trời không thông công mọi khía cạnh về các nguyên tắc lẽ thật để ban cho chúng ta sự chỉ dẫn và con đường thực hành, thì tôi hiểu được cái gì chứ? Nếu không có sự khai sáng của Đức Thánh Linh và sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời, thì dù có giỏi hùng biện thế nào, tố chất cao hay hiểu rõ Kinh Thánh ra sao tôi cũng không bao giờ giải quyết được những quan niệm của những người trong tôn giáo đó. Khi sự thật được tỏ lộ, tôi thấy rằng nếu không có sự khai sáng của Đức Thánh Linh, thì tôi chỉ là một kẻ ngốc không thể giải quyết được bất cứ chuyện gì, thậm chí không thể cải đạo bất kỳ ai. Tôi luôn nghĩ rằng việc đạt được kết quả trong bổn phận có nghĩa là mình có năng lực và tố chất tốt. Nhưng thực tế là tôi không hiểu công tác của Đức Chúa Trời, và cũng không biết mình là ai. Tôi đã luôn dùng những thứ này làm vốn liếng để khoe khoang. Tôi thật quá vô liêm sỉ.
Sau đó, tôi đã đọc được thêm đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời yêu nhân loại, chăm sóc cho nhân loại, và thể hiện sự quan tâm đối với nhân loại, cũng như liên tục và không ngừng chu cấp cho nhân loại. Ngài không bao giờ cảm thấy trong lòng rằng đây là một công việc phụ hay điều gì đó đáng được thật nhiều công trạng. Ngài cũng không cảm thấy rằng cứu rỗi nhân loại, chu cấp cho họ, và ban cho họ mọi thứ, là làm nên sự đóng góp khổng lồ cho nhân loại. Ngài đơn thuần chu cấp cho nhân loại một cách âm thầm và lặng lẽ, theo cách của riêng Ngài và thông qua thực chất của riêng Ngài, thông qua việc Ngài có gì và là gì. Cho dù nhân loại nhận được bao nhiêu sự chu cấp và giúp đỡ từ Ngài, Đức Chúa Trời cũng không bao giờ nghĩ đến hay cố gắng ghi vào công trạng. Điều này được quyết định bởi thực chất của Đức Chúa Trời, và cũng chính là sự bày tỏ thật về tâm tính Đức Chúa Trời” (Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Đọc lời Đức Chúa Trời, tôi đã rất xúc động. Tâm tính của Đức Chúa Trời thật tốt, thật đẹp! Để cứu rỗi chúng ta, những người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại trầm trọng, Đức Chúa Trời đã hai lần trở nên xác thịt. Ngài đã làm quá nhiều công tác, phán quá nhiều lời, chịu biết bao sỉ nhục và đớn đau. Nhưng Đức Chúa Trời chưa từng trình bày cho nhân loại thấy. Đức Chúa Trời chưa từng cảm thấy như thế là có công lao to lớn. Trong thực chất của Đức Chúa Trời không hề có sự kiêu ngạo và tự đại. Thay vào đó, Ngài âm thầm làm việc để hoàn thành công tác của mình. Sự khiêm nhường và ẩn mình của Đức Chúa Trời thật đáng ngưỡng mộ. Tôi thậm chí còn không bằng một con kiến. Tôi đạt được vài kết quả tốt trong bổn phận mà đã cảm thấy mình thật tuyệt vời. Tôi cho rằng mình đã đạt được nhiều thành tựu nên tỏ ra coi thường người khác. Nghĩ lại giọng điệu và cách hành xử của mình khi giáo huấn và hạ thấp người khác, tôi cảm thấy ghê tởm. Nếu Đức Chúa Trời không sắp đặt hoàn cảnh này để tỏ lộ và tỉa sửa tôi, thì bản tính kiêu ngạo của tôi đã gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh. Chính Đức Chúa Trời đã ngăn tôi bước vào con đường tà ác đó, cho phép tôi ăn năn và thay đổi. Đức Chúa Trời đã cứu rỗi tôi. Tôi thật sự vô cùng biết ơn Ngài! Vì vậy, tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Con không muốn sống theo tâm tính kiêu ngạo của mình. Xin Ngài hãy dẫn dắt và cứu rỗi con, giúp con sống như một con người”.
Một thời gian sau, tình trạng của tôi đã cải thiện được đôi chút. Một lần nữa, lãnh đạo lại sắp xếp tôi chăm tưới cho người mới. Có lần, một người chị em của tôi gặp khó khăn trong việc chăm tưới người mới và không biết phải làm gì. Vì vậy, chị ấy đã đến gặp tôi để nhờ thông công. Hóa ra chị ấy đã không nắm bắt đúng căn nguyên vấn đề của người mới đó, và tôi bắt đầu cảm thấy khinh thường chị ấy. Tôi nghĩ: “Tố chất của chị quá thấp. Chị thậm chí còn không nhận ra vấn đề của người ta. Nếu ai cũng chăm tưới cho người mới như chị, chẳng phải công tác của hội thánh sẽ bị trì hoãn sao?”. Nhưng lần này, tôi nhận ra mình đang tỏ lộ tâm tính kiêu ngạo. Vì vậy, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời và chống lại chính mình. Sau đó, tôi đã đọc được những lời này của Đức Chúa Trời: “Là một người đã nắm vững kiến thức chuyên môn, ngươi không được trịch thượng hay khoe khoang trình độ của mình, mà phải chủ động dạy những kỹ năng và kiến thức của mình cho những người mới, để tất cả mọi người có thể cùng nhau làm tròn bổn phận. Có thể rằng ngươi là người am hiểu nhất về chuyên môn của mình và đứng đầu về kỹ năng, nhưng đây là ân tứ mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi, và ngươi phải dùng nó để thực hiện bổn phận và phát huy những thế mạnh của mình. Bất kể có kỹ năng hay tài cán đến mấy, ngươi cũng không thể một mình đảm đương công tác, nếu tất cả mọi người đều có thể nắm vững kỹ năng và kiến thức chuyên môn thì bổn phận sẽ được thực hiện hiệu quả hơn. Như có câu nói: ‘Hảo hán cần ba người giúp’. Bất kể một cá nhân có tài giỏi đến đâu, nếu không có sự hỗ trợ của mọi người khác thì vẫn không đủ. Do đó, không ai được kiêu ngạo, không ai được mong muốn hành động độc đoán chuyên quyền. Người ta phải chống lại xác thịt, gạt bỏ những quan niệm và tư tưởng của mình, hợp tác hài hòa với tất cả mọi người. Ai có kiến thức chuyên môn thì phải yêu thương giúp đỡ người khác, để họ cũng có thể nắm vững những kỹ thuật và kiến thức này. Điều này có lợi cho việc thực hiện bổn phận. … Nếu ngươi quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời và sẵn lòng trung thành với công tác của nhà Ngài thì ngươi phải dâng hiến hết sở trường và kỹ năng của mình, để người khác có thể học hỏi và nắm vững, rồi thực hành bổn phận của họ tốt hơn. Làm như thế là phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời, chỉ có người như thế mới có nhân tính, họ được Đức Chúa Trời yêu thương và ban phước” (Muốn làm tròn bổn phận đòi hỏi phải có sự hợp tác hài hòa, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã chỉ cho tôi một con đường thực hành. Người chị em của tôi chỉ đang tập chăm tưới cho người mới. Việc chị ấy không hiểu hoặc không giải quyết được một số vấn đề là điều bình thường. Tôi nên cố hết sức để giúp chị ấy và dạy chị ấy cách giải quyết những vấn đề đó. Vì vậy, tôi và chị ấy đã cùng nhau thông công và tìm ra những đoạn lời Đức Chúa Trời có liên quan đến vấn đề này. Sau đó, những vấn đề của người mới đó đã được giải quyết và anh ấy sẵn lòng rao giảng phúc âm. Tôi và người chị em ấy đã rất vui. Sau đó, khi làm việc với các anh chị em, tôi đã khiêm nhường hơn một chút. Thỉnh thoảng khi rao giảng phúc âm và chăm tưới người mới, họ không thể giải quyết các vấn đề của đối tượng phúc âm và người mới. Nhưng tôi không còn coi thường họ nữa. Thay vào đó, chúng tôi đã cùng thông công và tìm kiếm các nguyên tắc. Khi họ đưa ra những đề xuất khác nhau, tôi đã có ý thức phủ nhận bản thân và lắng nghe họ. Tôi không còn ra lệnh cho họ hoặc coi thường họ nữa. Khi làm như vậy, tôi cảm thấy bình an và như được giải thoát.
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?
Bởi Sơ Tâm, Hàn Quốc Một thời gian trước, tôi đã gặp một nữ Cơ Đốc nhân người Philippines trên mạng tên là Teresa. Tìm hiểu về chị ấy, tôi...
Bởi Matthew, Pháp Khi tôi thực hiện bổn phận cùng một anh chị em nào đó, nếu thấy ai mắc lỗi cá nhân hoặc họ đã làm gì đó không phù hợp với...
Bởi Miễu Tiểu, Hàn Quốc Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Đấng Christ của thời kỳ sau rốt dùng nhiều lẽ thật khác nhau để dạy dỗ con người, để...
Bởi Minh Trí, Hàn Quốc Trong vai diễn của mình ở bộ phim gần nhất, tôi đã không để tâm nghiên cứu kĩ tình trạng tâm lý của nhân vật, cũng...