Tôi không còn lùi bước giữa hoạn nạn nữa

16/09/2025

Bởi Lưu Kiệt, Trung Quốc

Tháng 8 năm 2023, tôi đang làm lãnh đạo trong một hội thánh. Ngày 29, lãnh đạo cấp trên gửi đến một bức thư, nói rằng mấy ngày trước, hai hội thánh lân cận đã bị ĐCSTQ bắt bớ, và có rất nhiều anh chị em đã bị bắt giữ. Lãnh đạo hỏi tôi có biết tình hình bên đó không. Đọc xong thư, tôi giật mình, “Sao lại có nhiều anh chị em bị bắt như vậy chứ? Lãnh đạo gửi thư chắc là muốn xem mình có thể đi xử lý công tác khắc phục hậu quả không. Tuy không hiểu rõ tình hình bên đó, nhưng trước đây, mình từng xử lý công tác khắc phục hậu quả nên cũng có chút kinh nghiệm. Nếu phải đi thì mình cũng có thể phối hợp được. Hơn nữa, hội thánh bên đó có nhiều anh chị em bị bắt như vậy, nên cũng khó mà tìm được người xử lý công tác khắc phục hậu quả”. Nhưng rồi tôi lại nghĩ: “Xử lý công tác khắc phục hậu quả thì rất nguy hiểm, bản thân mình cũng đang bị truy nã. Nếu đi thì không chừng mình cũng sẽ bị bắt. Dù sao thì mình cũng không nắm rõ tình hình hội thánh bên đó, hơn nữa, lãnh đạo cũng không sắp xếp cho mình đi. Tốt nhất là mình không nên xung phong phối hợp”. Thế là tôi hồi âm, nói mình chưa từng đến đó và cũng không nắm rõ tình hình. Thật không ngờ, vừa gửi thư đi thì tôi lại nhận được một bức thư khác từ lãnh đạo cấp trên, bảo tôi đến hai hội thánh kia để xử lý công tác khắc phục hậu quả. Lãnh đạo cũng chuyển cho tôi danh sách mười bảy người đã bị bắt. Lãnh đạo hội thánh và những người đang làm mấy hạng mục bổn phận quan trọng đều đã bị bắt. Trong thư, lãnh đạo cấp trên còn thông công với tôi một số đường hướng xử lý công tác khắc phục hậu quả, bảo tôi đến tìm chị Châu Na để cùng phối hợp, cũng dặn tôi phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời thật nhiều và chú ý an toàn. Đọc đến đây, lòng tôi cảm thấy vô cùng khó chịu. Tôi nghĩ đến việc có rất nhiều anh chị em trong hội thánh đã bị bắt giữ, nên còn quá ít người có thể xử lý công tác khắc phục hậu quả. Tôi có chút kinh nghiệm về phương diện này, thích hợp để làm bổn phận này, nhưng tôi lại vì lo cho sự an toàn của bản thân, sợ bị bắt giữ mà đã chọn khoanh tay đứng nhìn, và không sẵn lòng phối hợp trừ khi bị chỉ đích danh. Khi gặp chuyện, tôi chỉ suy xét cho lợi ích của bản thân, chứ hoàn toàn không nghĩ cho lợi ích của hội thánh. Tôi thật quá ích kỷ rồi! Vì vậy, tôi đã hồi âm thư cho lãnh đạo, nói mình sẵn lòng đi xử lý công tác khắc phục hậu quả. Nhưng lúc này, tôi lại nghĩ: “Phần lớn lãnh đạo và người làm công ở hai hội thánh kia đều đã bị bắt. Lỡ như có người trong số họ vì không chịu nổi cực hình mà trở thành Giu-đa, mình mà đi thì chẳng phải là sẽ rơi ngay vào tròng sao? Bản thân mình còn đang bị ĐCSTQ truy nã, nếu bị bắt thì chắc chắn phải chịu tra tấn dã man hơn nhiều so với người khác, không bị đánh chết thì cũng bị đánh cho tàn phế”. Nghĩ đến đây, tôi thấy có chút sợ hãi trong lòng. Nhưng bổn phận đã đến, và tôi không thể ích kỷ và đê tiện, chỉ nghĩ cho bản thân được. Nên tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt tôi. Tôi nghĩ đến lời Đức Chúa Trời: “Với bổn phận của mình và những gì ngươi phải làm, và hơn thế nữa, với sự ủy thác do Đức Chúa Trời ban cho cùng chức trách của ngươi, cũng như công tác quan trọng nằm ngoài bổn phận của ngươi nhưng cần ngươi làm, công việc được bố trí cho ngươi và công việc ngươi được gọi đích danh để làm – ngươi phải trả giá và bất chấp khó khăn. Ngay cả khi ngươi cần phải nỗ lực hết mình, ngay cả khi sự bách hại sắp xảy ra, và ngay cả khi điều đó nguy hiểm đến tính mạng của mình, thì ngươi cũng không được lấy làm hối tiếc về cái giá phải trả, mà phải dâng lòng trung thành và vâng phục cho đến chết. Đây là biểu hiện thực tế, sự dâng mình thực tế và thực hành thực sự của việc mưu cầu lẽ thật(Tại sao con người phải mưu cầu lẽ thật, Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Lời của Đức Chúa Trời khiến tôi hiểu được rằng, khi bổn phận đến, đó là sự kiểm nghiệm của Đức Chúa Trời dành cho tôi. Ngài muốn xem thái độ của tôi với bổn phận, xem tôi có đức tin và sự thuận phục đối với Ngài hay không. Tuy việc xử lý công tác khắc phục hậu quả có nguy hiểm, nhưng đây là bổn phận được chỉ định đích danh cho tôi. Dù có phải trả cái giá nào đi nữa, tôi cũng phải làm tốt bổn phận này. Việc quan trọng nhất chính là bảo vệ của lễ của Đức Chúa Trời khỏi bị tổn thất. Tôi nghĩ đến việc nhà Đức Chúa Trời đã chăm tưới, bồi dưỡng tôi suốt những năm qua. Bây giờ, ở thời khắc then chốt này, tôi phải bảo vệ công tác của hội thánh, không thể tiếp tục nghĩ cho bản thân mà làm con rùa rụt cổ nữa. Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con là loài thọ tạo, nên thuận phục Ngài cũng là chuyện thiên kinh địa nghĩa. Con không nên có lựa chọn hay yêu cầu cho riêng mình. Tuy có yếu đuối, nhưng con sẵn lòng quan tâm đến tâm ý của Ngài, và không để lại bất kỳ tiếc nuối nào trong bổn phận. Xin Ngài dẫn dắt và chỉ dẫn cho con”.

Ngày 31 tháng 8, tôi đến một hội thánh lân cận và gặp chị Châu Na. Tôi nghe chị Châu Na nói lần này ĐCSTQ đã điều động rất nhiều cảnh sát đến bắt bớ các anh chị em. Hội thánh này có hai lãnh đạo, chấp sự phúc âm và những người tiếp đãi đều đã bị bắt. Hiện giờ thậm chí không còn một ngôi nhà an toàn nào cả. Tôi thầm nghĩ: “Nhiều người bị bắt đến vậy, xem ra cảnh sát đã theo dõi và giám sát từ khá lâu. Làm bổn phận ở đây thật quá nguy hiểm rồi!”. Nghĩ đến đây, tôi thấy có chút sợ hãi trong lòng, nên đã thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ đến lời Đức Chúa Trời: “Bất kể Sa-tan ‘hùng mạnh’ đến đâu, bất kể nó trơ tráo và tham vọng như thế nào, bất kể khả năng gây hại của nó lớn cỡ nào, bất kể những chiêu trò nó dùng để làm hư hoại và dụ dỗ con người có đa dạng ra sao, bất kể những trò bịp bợm và mưu đồ nó dùng để dọa dẫm con người có tinh ranh cỡ nào, bất kể hình thức tồn tại của nó có thể thay đổi như thế nào, thì nó cũng chưa bao giờ có thể tạo ra một sinh vật sống nào, chưa bao giờ có thể đặt ra các luật lệ và quy tắc cho sự tồn tại của muôn vật, nó chưa bao giờ có thể cai trị và kiểm soát bất kỳ vật gì, có sự sống hay không có sự sống. Trong khắp vũ trụ bao la rộng lớn, không có một người nào hay vật gì được sinh ra từ nó, hoặc tồn tại vì nó; không có một người nào hay vật gì bị nó cai trị hoặc bị nó kiểm soát. Ngược lại, nó không những phải sống dưới sự thống trị của Đức Chúa Trời, mà hơn thế nữa, còn phải thuận phục tất cả những lệnh truyền và mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. Không có sự cho phép của Đức Chúa Trời, thì Sa-tan khó mà đụng đến thậm chí một giọt nước hay một hạt cát trên đất; không có sự cho phép của Đức Chúa Trời, Sa-tan thậm chí không được tự ý di chuyển những con kiến trên đất, chứ đừng nói đến loài người, những người đã được Đức Chúa Trời tạo ra(Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời đã ban cho tôi đức tin. Đức Chúa Trời cai quản và tể trị mọi sự, cả Sa-tan cũng nằm trong tay của Ngài. Nếu Ngài không cho phép thì dù có ngông cuồng thế nào, Sa-tan cũng không làm gì được tôi. Việc tôi có bị bắt hay không đều nằm trong tay của Đức Chúa Trời. Hôm sau, tôi cùng chị Châu Na đi tìm những người đang bảo quản của lễ và các vật phẩm của hội thánh. Chúng tôi đồng tâm hợp ý cầu nguyện với Đức Chúa Trời và bàn bạc cách phối hợp. Chỉ trong vài ngày mà chúng tôi đã di dời hết các vật phẩm và của lễ của hội thánh một cách an toàn. Nhìn thấy sự bảo vệ và dẫn dắt của Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy vô cùng biết ơn Ngài.

Ngay sau đó, tôi và chị Châu Na đã đến hội thánh còn lại. Gần như toàn bộ lãnh đạo và chấp sự của hội thánh này đều đã bị bắt. Chỉ còn lại chấp sự phúc âm là chưa bị bắt, và hoàn toàn không còn một gia đình nào để chúng tôi có thể tá túc. Không còn cách nào khác, chúng tôi chỉ đành hẹn chấp sự phúc âm ra đồng ngô hay lên núi để bàn bạc công tác. Khi đó, công tác gặp rất nhiều khó khăn, khiến chúng tôi không thể giải quyết được hết cùng một lúc. Lòng tôi cảm thấy có chút yếu đuối, và sống giữa những khó khăn. Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài khai sáng và dẫn dắt tôi. Sau khi cầu nguyện, tôi nhớ đến lời Ngài: “Sự khôn ngoan to lớn nhất là ngưỡng vọng Đức Chúa Trời và nương cậy vào Ngài trong mọi việc(Đức tin nơi Đức Chúa Trời phải bắt đầu bằng cách nhìn thấu những xu hướng xấu xa của thế gian, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lòng tôi bỗng sáng tỏ, “Đúng rồi, mình nên cậy dựa Đức Chúa Trời. Ngài có thẩm quyền cũng như quyền năng để cai quản trời đất và vạn vật. Nếu mình cậy dựa Ngài thì không có chuyện gì là khó hoàn thành cả”. Lời Đức Chúa Trời tựa như chiếc phao cứu sinh, ban cho tôi đức tin và sức mạnh. Tôi bắt đầu suy nghĩ nếu không có gia đình tiếp đãi an toàn thì phải làm sao. Lúc đó, tôi nhận ra nếu cho một chị em đi thuê một căn nhà, thì chẳng phải chúng tôi sẽ có chỗ để ở và bàn bạc công tác sao? Tôi lập tức nói ý tưởng này với chị Châu Na. Hai chúng tôi đạt được sự đồng thuận và ngay hôm đó đã đến tìm một chị em để thông công về việc này. Nhưng lúc đó, tôi vẫn còn chút lo ngại. Hoàn cảnh nguy hiểm như vậy, liệu người chị em này có đồng ý không? Thật không ngờ, chị ấy nói cũng đang định thuê một căn nhà để tiếp đãi chúng tôi. Thế mà chúng tôi lại có chung suy nghĩ. Tôi thấy cảm động vô cùng. Chúng tôi xúc động nắm lấy tay người chị em kia, và không kìm được nước mắt. Tôi thể nghiệm và lĩnh hội một cách sâu sắc rằng đây đều là sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Khi yếu đuối nhất, gian khổ nhất, và trong lòng bị dằn vặt nhiều nhất, tôi đã cậy dựa Đức Chúa Trời và thấy được bàn tay của Ngài; tôi thấy Ngài đang bảo vệ công tác của chính Ngài, Ngài đã sớm chuẩn bị người tiếp đãi, và mở ra con đường cho chúng tôi. Tôi không ngừng thầm tạ ơn Đức Chúa Trời. Sau đó, tôi biết được rằng, sau khi chấp sự sự vụ là chị Lâm Tịch bị bắt, con trai chị ấy đã chi tiền và nhờ vả quan hệ để nộp tiền bảo lãnh cho chị ấy ra ngoài. Chị Lâm Tịch nói rằng cảnh sát đã tra tấn chị. Họ đấm đá, bạt tai, dùng dùi cui điện để sốc điện, họ cũng đã đổ dầu mù tạt vào miệng chị, xối nước lạnh, rồi lại dội nước nóng lên người chị ấy. Chị ấy bị đánh đến mức bầm tím mặt mũi, đôi còng tay siết sâu vào da thịt đến nỗi không tháo ra được. Tôi còn nghe nói lãnh đạo hội thánh là chị Lý Sảng còn bị đánh đến mức mặt mũi biến dạng. Nghe được những chuyện này, tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi, toàn thân rũ rượi, lòng đau như dao cắt. Tôi thầm nghĩ: “Mình đang xử lý công tác khắc phục hậu quả, nên đôi khi phải tự mình di dời của lễ và sách lời Đức Chúa Trời. Làm bổn phận ở đây cũng giống như đi giật lại của lễ ngay trước mũi cảnh sát vậy. Giờ khắp nơi đều có camera và thiết bị giám sát, mình lại là đối tượng đang bị truy nã, có nguy cơ bị bắt giữ bất kỳ lúc nào. Nếu mình bị cảnh sát bắt khi đang trên đường vận chuyển sách lời Đức Chúa Trời, thì họ sẽ tra tấn mình thế nào đây? Chị Lâm Tịch đã 78 tuổi rồi, vậy mà họ vẫn có thể ra tay ác độc, hành hạ chị ấy đến suýt chết. Mình mà bị bắt, thì không biết cảnh sát sẽ còn dùng cực hình gì để tra tấn mình. Chẳng phải họ sẽ đánh mình đến chết hay sao? Thậm chí cũng không biết mình có sống nổi mà rời khỏi nhà tù hay không. Nếu mình không chịu nổi cực hình mà trở thành Giu-đa, thì cuộc đời tin Đức Chúa Trời của mình coi như kết thúc, và mình cũng không còn cơ hội được cứu rỗi nữa”. Tôi càng nghĩ lại càng sợ, toàn thân không còn chút sức lực, và thậm chí còn có chút hối hận, “Giờ thì mình thực sự đang ở nơi đầu sóng ngọn gió rồi. Sao mình lại không suy nghĩ cho kỹ mà đã vội vàng tiếp nhận bổn phận này chứ? Sao mình lại ngốc đến vậy chứ?”. Tôi nhận ra trạng thái của mình không đúng, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con nghe nói con rồng lớn sắc đỏ đã bắt giữ rất nhiều lãnh đạo và người làm công, đã đánh các chị em đến mức mặt mũi biến dạng, lại còn dùng đủ loại cực hình để tra tấn họ. Con thấy mình yếu đuối, sợ hãi và đang sống trong sự hèn nhát. Lạy Đức Chúa Trời, con xin Ngài dẫn dắt, chỉ dẫn, ban thêm cho con đức tin và sức mạnh, để con không bị quyền thế đen tối của ĐCSTQ đe dọa mà khuất phục”.

Sau khi cầu nguyện, tôi nhớ đến một câu trong lời Đức Chúa Trời: “Ngay cả mạng sống của chính mình, cũng phải hoàn thành sự ủy thác của Đức Chúa Trời”. Tôi tìm đoạn lời ấy ra để đọc. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Cách ngươi tiếp cận sự ủy thác của Đức Chúa Trời là cực kỳ quan trọng. Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng. Nếu ngươi không thể hoàn thành những gì Đức Chúa Trời đã giao phó cho ngươi, thì ngươi không xứng được sống trước mặt Ngài và ngươi phải tiếp nhận sự trừng phạt. Đó là điều thiên kinh địa nghĩa rằng con người phải hoàn thành những sự ủy thác mà Đức Chúa Trời giao phó cho họ. Đây là trách nhiệm cao nhất của con người, và cũng quan trọng như chính sự sống của họ. Nếu ngươi xem nhẹ sự ủy thác của Đức Chúa Trời, thì đây là sự phản bội nghiêm trọng nhất đối với Ngài. Trong chuyện này, ngươi còn thảm thương hơn cả Giu-đa, và phải bị nguyền rủa. Mọi người phải có được sự hiểu biết thấu đáo về cách tiếp cận với những sự ủy thác từ Đức Chúa Trời, và ít nhất, họ phải hiểu rằng: những sự ủy thác mà Đức Chúa Trời giao cho nhân loại chính là sự nâng cao và ân đãi đặc biệt từ Đức Chúa Trời, là điều vinh hiển nhất, và mọi sự khác đều có thể từ bỏ, ngay cả mạng sống của chính mình, cũng phải hoàn thành sự ủy thác của Đức Chúa Trời(Làm thế nào để biết bản tính con người, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Khi nghiền ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi nhận thức được rằng bổn phận là sự ủy thác của Đức Chúa Trời cho con người, cũng là trách nhiệm mà con người không thể thoái thác. Nếu ai không hoàn thành được thì không xứng đáng được sống. Tôi nghĩ đến các thánh đồ thời xưa. Để hoàn thành sự ủy thác của Đức Chúa Trời, họ đã rao truyền phúc âm của Đức Chúa Trời đến khắp nơi trên thế giới. Cho dù có phải rơi đầu hay đổ máu, họ cũng không bao giờ bị khuất phục trước thế lực của Sa-tan, và vẫn kiên định không lùi bước mà loan truyền phúc âm của Đức Chúa Trời. Thế mà, khi đối mặt với bổn phận này, tôi lại không cảm thấy đây là chuyện vinh hiển. Mà ngược lại, vì lo sợ bị bắt, tôi đã sống trong sự hèn nhát. Tôi chỉ nghĩ đến lợi ích và được mất của bản thân. Khi gặp nguy hiểm, tôi đã muốn trốn chạy. Chưa bị bắt hay bị tra tấn gì cả mà tôi đã hối hận vì tiếp nhận bổn phận này, và trong lòng tôi đã phản bội Đức Chúa Trời rồi. So với các thánh đồ thời xưa, tôi thực sự thấy hổ thẹn! Họ chưa từng đọc nhiều lời Đức Chúa Trời mà vẫn có thể làm chứng như vậy, còn tôi tin Đức Chúa Trời bao năm qua, đã ăn uống biết bao nhiêu lời Ngài, mà đến thời điểm mấu chốt, tôi lại không thể quan tâm đến tâm ý của Ngài, và không hề trung thành trong bổn phận. Tôi thực sự quá thiếu lương tâm và nhân tính rồi!

Tôi lại đọc thêm lời Đức Chúa Trời: “Những kẻ địch lại Đấng Christ cực kỳ ích kỷ và đê tiện. Họ không có đức tin chân thật nơi Đức Chúa Trời, càng không có lòng trung thành với Đức Chúa Trời; khi gặp chuyện, họ chỉ bảo vệ và bảo toàn cho bản thân mình. Đối với họ, không có gì quan trọng hơn sự an toàn của riêng họ. Họ không quan tâm đến việc công tác của hội thánh bị tổn hại như thế nào – miễn họ vẫn còn sống và không bị bắt là được rồi. Những người này cực kỳ ích kỷ, họ không hề nghĩ đến các anh chị em, hay nghĩ về công tác của hội thánh, mà chỉ nghĩ đến an nguy của chính họ. Họ là những kẻ địch lại Đấng Christ. Vậy khi những người trung thành với Đức Chúa Trời và có đức tin chân thật nơi Đức Chúa Trời mà gặp phải chuyện thế này thì họ xử lý như thế nào? Cách làm của họ khác với của kẻ địch lại Đấng Christ như thế nào? (Thưa, những người trung thành với Đức Chúa Trời thì khi gặp những chuyện như vậy sẽ nghĩ đủ cách để bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, bảo vệ của lễ của Đức Chúa Trời khỏi bị tổn hại, và sẽ thực hiện những sự sắp xếp cần thiết cho các lãnh đạo và chấp sự, cùng các anh chị em, để giảm thiểu tổn thất hết sức có thể. Trong khi đó, kẻ địch lại Đấng Christ bảo vệ bản thân trước đã. Họ không quan tâm đến công tác của hội thánh hay sự an nguy của dân được Đức Chúa Trời chọn. Và khi hội thánh phải đối mặt với sự bắt bớ, làm như thế sẽ gây thiệt hại cho công tác của hội thánh.) Kẻ địch lại Đấng Christ bỏ rơi công tác của hội thánh và của lễ của Đức Chúa Trời, cũng không sắp xếp người xử lý hậu quả. Nó chẳng khác nào cho phép con rồng lớn sắc đỏ tịch thu của lễ của Đức Chúa Trời và bắt giữ dân được Đức Chúa Trời chọn. Chẳng phải đây là một biến tướng của việc bán đứng của lễ của Đức Chúa Trời và dân được Đức Chúa Trời chọn sao? Khi những người trung thành với Đức Chúa Trời biết rõ hoàn cảnh đang nguy hiểm, họ vẫn bất chấp nguy hiểm để làm tốt việc giải quyết hậu quả và họ giữ cho những tổn thất đối với nhà Đức Chúa Trời ở mức tối thiểu, sau đó họ mới rút lui. Họ không ưu tiên sự an nguy của riêng mình. Các ngươi nói xem, ở đất nước tà ác của con rồng lớn sắc đỏ này, ai có thể đảm bảo rằng không hề có mối nguy hiểm nào khi tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận? Bất kể một người đảm nhận bổn phận gì thì cũng đều có hiểm nguy nào đó – tuy nhiên việc thực hiện bổn phận là do Đức Chúa Trời ủy thác, và trong khi đi theo Đức Chúa Trời, người ta phải chấp nhận hiểm nguy khi thực hiện bổn phận của mình. Người ta nên vận dụng sự khôn ngoan và cần thực hiện các biện pháp để đảm bảo an toàn, nhưng không nên đặt an nguy cá nhân của mình lên hàng đầu. Họ nên quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, đặt công tác của nhà Ngài và việc rao truyền phúc âm lên hàng đầu. Hoàn thành sự ủy thác Đức Chúa Trời giao cho ngươi là điều quan trọng nhất, và điều này được đặt lên hàng đầu. Những kẻ địch lại Đấng Christ đặt sự an nguy cá nhân lên hàng đầu; cảm thấy mọi chuyện khác đều không liên quan đến họ. Bất kể ai gặp chuyện gì họ cũng mặc kệ, chỉ cần bản thân không sao là được rồi, như thế là họ thấy thoải mái. Họ không có chút lòng trung thành nào, là điều được quyết định bởi thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ(Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 2)). Lời Đức Chúa Trời đã vạch rõ bản tính ích kỷ và đê tiện của kẻ địch lại Đấng Christ. Tôi nhận ra được rằng, khi đối mặt với hoàn cảnh nguy hiểm là sự bắt bớ của con rồng lớn sắc đỏ, kẻ địch lại Đấng Christ sẽ tìm cách bảo toàn bản thân mọi lúc mọi nơi. Họ đặt sự an nguy của bản thân lên hàng đầu, không bao giờ nghĩ cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thậm chí vì bảo toàn bản thân mà sẽ bỏ mặc của lễ của Đức Chúa Trời. Kết hợp với lời Đức Chúa Trời, tôi đối chiếu với những gì mình đã bộc lộ và thấy mình giống hệt một kẻ địch lại Đấng Christ. Khi nghe nói lần này cảnh sát đã huy động rất nhiều lực lượng để bắt giữ các anh chị em, và rằng sau khi bị bắt, các anh chị em đã phải chịu đủ loại cực hình, chị Lý Sảng thì bị đánh đến mức mặt mũi biến dạng, ngay cả chị Lâm Tịch đã 78 tuổi mà họ cũng không tha, tôi sợ rằng mình sẽ bị bắt và rơi vào tay cảnh sát trong khi làm công tác khắc phục hậu quả, rồi không bị họ đánh chết thì cũng bị đánh đến tàn phế. Lỡ như không chịu nổi cực hình mà trở thành Giu-đa thì tôi sẽ không thể được cứu rỗi nữa. Tôi đã sống trong sự hèn nhát và sợ hãi, thậm chí còn hối hận vì đã tiếp nhận bổn phận này. Khi đối mặt với nguy hiểm, tôi chỉ muốn bảo toàn bản thân. Tôi không nghĩ cho sự an toàn của các anh chị em, cũng không suy xét xem của lễ của Đức Chúa Trời có bị con rồng lớn sắc đỏ cướp đi hay không, như thể ai cũng có thể bị bắt, chỉ cần bản thân tôi không bị bắt là được. Tôi hoàn toàn không bảo vệ công tác của hội thánh. Tôi thực sự quá ích kỷ và đê tiện rồi! Tôi nghĩ đến việc trong đất nước của con rồng lớn sắc đỏ, tin Đức Chúa Trời hay làm bất kỳ bổn phận nào cũng đều có nguy cơ bị bắt bớ, nhưng Đức Chúa Trời dùng hoàn cảnh này để kiểm nghiệm con người và hoàn thiện đức tin của họ. Trong hoàn cảnh nguy hiểm, những ai có thể không màng đến sự an nguy của bản thân, vẫn bảo vệ của lễ của Đức Chúa Trời và các anh chị em, thì đây là những người biết bảo vệ công tác của hội thánh và có lòng trung thành với Đức Chúa Trời. Khi nhận ra những điều này, tôi không còn sợ hãi như trước nữa, cũng có đức tin để xử lý tốt công tác khắc phục hậu quả, và di dời của lễ cũng như sách lời Đức Chúa Trời ra ngoài càng sớm càng tốt, để giảm thiểu tổn thất xuống mức thấp nhất.

Tôi lại đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Các môn đồ đó của Đức Chúa Jêsus đã chết như thế nào? Trong số các môn đồ, có những người bị ném đá, bị kéo lê phía sau một con ngựa, bị đóng đinh lộn ngược xuống, bị ngũ mã phanh thây – mọi kiểu chết chóc đã xảy đến với họ. Lý do cho cái chết của họ là gì? Họ đã bị xử tử đúng luật vì tội lỗi của họ phải không? Không. Họ loan truyền phúc âm của Chúa, nhưng người đời không tiếp nhận, ngược lại còn lên án, đánh chửi, còn đẩy họ vào chỗ chết – đó là cách mà họ tử vì đạo. Chúng ta không nhắc đến kết cục cuối cùng của những người tử vì đạo đó, hay việc Đức Chúa Trời quy định hành vi của họ như thế nào, mà hãy nói xem khi họ đi đến cuối cùng, thì cách họ kết thúc sự sống có hợp với quan niệm của con người không? (Thưa, không.) Từ góc độ quan niệm của con người, nếu họ trả cái giá đắt như thế để rao truyền công tác của Đức Chúa Trời, thế mà họ lại bị Sa-tan giết chết. Điều này không phù hợp với các quan niệm của con người, nhưng chính xác là chuyện xảy ra với họ – Đây là chuyện Đức Chúa Trời cho phép xảy ra. Lẽ thật nào có thể tìm thấy trong chuyện này? Có phải việc Đức Chúa Trời cho phép họ chết theo cách này chính là sự nguyền rủa và lên án của Ngài, hay đó là kế hoạch và phúc lành của Ngài không? Cả hai đều không phải. Đó là gì? Mọi người giờ đây thật đau lòng khi suy ngẫm về cái chết của họ, nhưng mọi việc đã diễn ra như thế: Những người tin vào Đức Chúa Trời đã chết theo cách đó, có thể giải thích điều này như thế nào? Khi chúng ta nhắc đến chủ đề này, các ngươi hãy đặt mình vào vị trí của họ; lòng của các ngươi khi đó có buồn không, và các ngươi có cảm nhận một nỗi đau âm ỉ không? Các ngươi nghĩ rằng: ‘Những người này đã thực hiện bổn phận rao truyền phúc âm của Đức Chúa Trời và nên được coi là người tốt, vậy tại sao họ có thể đi đến một hồi kết như thế, một kết cục như thế?’. Thật ra, đây là cách thể xác của họ đã chết và qua đời; đây là cách thức họ rời khỏi thế giới loài người, nhưng điều đó không có nghĩa kết cục của họ là như vậy. Bất kể những cách thức họ chết và ra đi như thế nào đi nữa, hay nó đã xảy ra làm sao, thì cũng không phải là cách Đức Chúa Trời quy định kết cục cuối cùng cho những sinh mệnh, cho những loài thọ tạo đó. Đây là một điều ngươi phải thấy rõ. Trái lại, họ đã sử dụng một cách chính xác những cách thức đó để lên án thế gian này và làm chứng cho những việc làm của Đức Chúa Trời. Những loài thọ tạo này đã sử dụng mạng sống quý giá nhất của họ – họ đã sử dụng khoảnh khắc cuối cùng của sự sống để làm chứng cho những việc làm của Đức Chúa Trời, để làm chứng cho quyền năng vĩ đại của Đức Chúa Trời và tuyên bố cho Sa-tan và thế gian rằng những việc làm của Đức Chúa Trời là đúng, rằng Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, rằng Ngài là Chúa và là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời. Thậm chí đến giây phút cuối cùng của sự sống họ, họ không bao giờ chối bỏ danh của Đức Chúa Jêsus. Đây chẳng phải là một hình thức tuyên án thế gian này hay sao? Họ đã dùng mạng sống của mình để tuyên bố với thế gian, để xác nhận với loài người rằng Đức Chúa Jêsus là Chúa, rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, rằng Ngài là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời, rằng công tác cứu chuộc toàn nhân loại mà Ngài làm khiến cho nhân loại này được tiếp tục sống sót – sự thật này đời đời không bao giờ thay đổi. Những người đã tử vì đạo vì rao truyền phúc âm của Đức Chúa Jêsus, họ đã thực hiện bổn phận của mình đến mức độ nào? Đã đến mức tối đa chưa? Mức tối đa được biểu lộ như thế nào? (Họ đã dâng mạng sống của mình.) Đúng vậy, họ đã trả giá bằng mạng sống của mình. Gia đình, của cải và những thứ vật chất của cuộc đời này đều là những thứ bên ngoài; điều duy nhất liên quan đến bản thân là sự sống. Đối với mỗi người sống, thì sự sống là thứ đáng trân trọng nhất, là thứ quý giá nhất và, thật tình cờ, những người này đã có thể dâng tài sản quý giá nhất của họ – sự sống – như một sự xác nhận và lời chứng cho tình yêu của Đức Chúa Trời đối với nhân loại. Cho đến ngày họ chết, họ không chối bỏ danh của Đức Chúa Trời, họ cũng không chối bỏ công tác của Đức Chúa Trời, và họ đã sử dụng khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời mình để làm chứng cho sự hiện hữu của sự thật này – chẳng phải đây là dạng chứng ngôn cao cả nhất sao? Đây là cách thực hiện bổn phận tốt nhất; đây là ý nghĩa của việc làm tròn trách nhiệm của một người. Khi Sa-tan đe dọa và uy hiếp họ, và cuối cùng, ngay cả khi nó khiến họ phải trả giá bằng mạng sống của mình, thì họ vẫn không từ bỏ trách nhiệm của mình. Đây là ý nghĩa của việc thực hiện bổn phận đến mức tối đa. Ý của Ta qua điều này là gì? Có phải Ta có ý là muốn các ngươi sử dụng cùng một phương pháp để làm chứng về Đức Chúa Trời và để rao truyền phúc âm của Ngài không? Ngươi không nhất thiết phải làm như thế, nhưng ngươi phải hiểu rằng đây là trách nhiệm của ngươi, rằng nếu Đức Chúa Trời cần ngươi, thì ngươi nên chấp nhận như một điều chính nghĩa phải làm(Rao truyền phúc âm là bổn phận không thể thoái thác của tất cả những người tin Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi nghiền ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu được rằng, tin Đức Chúa Trời thì phải có tấm lòng khao khát Ngài mãnh liệt. Tôi nghĩ đến việc các thánh đồ thời xưa đã dám hy sinh tính mạng để loan truyền phúc âm của Đức Chúa Jêsus. Người thì bị ngựa kéo chết, người thì bị ném vào chảo dầu, có cả Phi-e-rơ vì Đức Chúa Trời mà chịu đóng đinh ngược trên thập tự giá, thuận phục cho đến chết; họ đã làm chứng vang dội cho Đức Chúa Trời. Cái chết của họ vô cùng ý nghĩa, có giá trị và được Đức Chúa Trời ghi nhớ. Tuy xác thịt của họ bị Sa-tan tàn hại đến chết, nhưng linh hồn của họ không bao giờ chết. Nếu tôi vì sợ bị bắt, bị đánh chết mà từ bỏ bổn phận hoặc trở thành Giu-đa, rồi phản bội Đức Chúa Trời, vậy thì sống cũng chỉ là cái xác không hồn, và cuối cùng linh hồn tôi cũng sẽ phải xuống địa ngục mà chịu sự trừng phạt đời đời. Tôi liền cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, chuyện sống chết của con là do Ngài định đoạt, con sẵn lòng thuận phục sự sắp đặt và an bài của Ngài. Nếu con thực sự bị bắt thì đó cũng là việc được Ngài cho phép, con sẵn lòng đứng vững làm chứng cho Ngài. Dù bị cảnh sát tra tấn đến chết, con cũng sẽ không bao giờ trở thành Giu-đa mà bán đứng lợi ích của hội thánh”. Sau khi cầu nguyện xong, tôi thấy trong lòng càng có thêm đức tin.

Vì các lãnh đạo hội thánh đều đã bị bắt, nên chúng tôi hoàn toàn không biết hội thánh có bao nhiêu nhà bảo quản sách. Sau đó, chúng tôi dò la khắp nơi thì mới biết là cần di dời sách lời Đức Chúa Trời mà chị Hách Y và một chị em khác bảo quản. Chúng tôi cũng nghe được từ một chị em được thả ra rằng cảnh sát sắp tiến hành đợt bắt bớ thứ hai. Nếu số sách này không được kịp thời chuyển đi, thì sẽ rơi vào tay con rồng lớn sắc đỏ. Chúng tôi đã hẹn gặp chị Hách Y ở một nơi hẻo lánh, nhưng chị ấy nói có hai chiếc camera giám sát trước cửa nhà bảo quản sách lời Đức Chúa Trời. Chị ấy sợ khi chuyển sách đi sẽ xảy ra chuyện, nên có nói thế nào cũng không chịu cho chúng tôi chuyển đi. Tôi thầm nghĩ: “Cảnh sát đã có ảnh của chị Hách Y rồi, lại còn cho các anh chị em đã bị bắt nhận diện chị ấy. Nếu không chuyển sách đi, thì chỉ cần chị ấy xảy ra chuyện, sách lời Đức Chúa Trời sẽ hoàn toàn rơi vào tay con rồng lớn sắc đỏ, và lợi ích của hội thánh sẽ bị tổn hại nghiêm trọng. Nhưng nếu mình bị bắt khi đang chuyển sách đi, chẳng phải cảnh sát sẽ đánh mình đến chết hay sao?” Tôi có chút lo lắng và sợ hãi, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ đến lời phán của Đức Chúa Jêsus: “Ðừng sợ kẻ giết thân thể mà không giết được linh hồn; nhưng thà sợ Ðấng làm cho mất được linh hồn và thân thể trong địa ngục(Ma-thi-ơ 10:28). Đúng vậy, Sa-tan có thể tàn hại xác thịt, nhưng không thể giết hại linh hồn của con người. Nếu tôi bị bắt khi đang chuyển sách đi, thì cũng là việc được Đức Chúa Trời cho phép. Đã đến lúc tôi phải làm chứng cho Đức Chúa Trời. Tôi không thể để sách lời Đức Chúa Trời rơi vào tay con rồng lớn sắc đỏ được. Tôi nói với chị Hách Y: “Chị không cần tham gia vào việc di dời sách lời Đức Chúa Trời nữa, chúng tôi sẽ tự chuyển đi”. Chị Hách Y đã đồng ý. Tôi cùng chị Châu Na bàn bạc và thống nhất cách di dời sách lời Đức Chúa Trời. Chị Châu Na nói: “Việc chuyển sách đi lần này quá nguy hiểm. Chị đang bị truy nã thì đừng ra mặt nữa, để tôi đi một mình thôi. Nếu bị bắt thì chỉ có mình tôi bị thôi”. Nghe chị Châu Na nói vậy, tôi rất xúc động, và cũng muốn để chị ấy tự làm. Nhưng tôi nhớ sức khỏe của chị ấy không tốt, chị ấy tự chuyển sách thì sẽ mất nhiều thời gian và sẽ gặp nguy hiểm. Tôi không thể tiếp tục ích kỷ, đê tiện và chỉ lo bảo toàn bản thân nữa. Tôi nói: “Tốt hơn hết là hai chúng ta cùng đi, như vậy thì sẽ nhanh hơn. Chuyển đi càng nhanh thì càng an toàn”. Vì vậy, chúng tôi cải trang rồi cẩn thận chuyển sách lời Đức Chúa Trời đi. Vài ngày sau, sách lời Đức Chúa Trời ở một chỗ khác cũng được chuyển đi hết. Tôi thấy được sự trông chừng và bảo vệ của Đức Chúa Trời, trong lòng rất biết ơn Ngài!

Qua việc xử lý công tác khắc phục hậu quả lần này, tôi cảm thấy vô cùng xúc động. Chính lời Đức Chúa Trời đã dẫn dắt tôi bước từng bước một ra khỏi sự hèn nhát và sợ hãi. Ở thời điểm gian khổ và bất lực nhất của tôi, chính Đức Chúa Trời đã mở ra con đường cho tôi, cho tôi có chút nhận biết, thể nghiệm và lĩnh hội thực tế về sự toàn năng và tể trị của Ngài. Đồng thời, tôi cũng có chút nhận biết về bản tính Sa-tan ích kỷ và đê tiện của mình. Tôi nhận ra rằng việc làm bổn phận trong hoàn cảnh nguy hiểm này là một sự tỏ lộ và cũng là sự hoàn thiện đối với tôi. Tôi đã không lùi bước khi phải làm bổn phận trong hoàn cảnh nguy hiểm. Đây đều là kết quả đạt được nhờ sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời. Tạ ơn Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Đức Chúa Trời rất công chính

Bởi Trương Lâm, Nhật Bản Tháng Chín năm 2012, tôi đang phụ trách công tác của hội thánh thì gặp lãnh đạo của mình là Nghiêm Trác. Tôi phát...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger