Cuối cùng tôi đã giải trừ hiểu lầm về Đức Chúa Trời

23/02/2023

Bởi Diệc Thiển, Trung Quốc

Năm 2019, tôi làm lãnh đạo hội thánh. Vì tôi bỏ bê trách nhiệm, chỉ mưu cầu danh tiếng và địa vị, ghen tị và không hợp tác với người cộng sự, không làm việc hòa hợp với chị ấy, nên công tác của chúng tôi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Lãnh đạo đã xử lý tôi, giúp đỡ và hỗ trợ nhiều lần, nhưng tôi vẫn không chịu tiếp thu. Cuối cùng, tôi đã bị cách chức. Bị tước bổn phận khiến tôi vô cùng đau buồn. Trước đây, tôi từng một lần bị cách chức vì mưu cầu danh tiếng và địa vị, giờ vấn đề đó lại nảy sinh thêm lần nữa. Tôi thấy mình đã quá quan tâm đến danh tiếng và địa vị, liên tục gây nhiễu loạn công tác của hội thánh. Tôi chẳng hợp làm lãnh đạo một chút nào.

Vài tháng sau, hội thánh tiến hành bầu lãnh đạo hội thánh. Hôm nọ, một người chị em bảo tôi rằng: “Em muốn bầu chị làm lãnh đạo”. Nghe thấy thế, tôi bỗng băn khoăn lo lắng. Lúc làm lãnh đạo trước đây, tôi luôn mưu cầu danh tiếng và địa vị, làm nhiều việc ác, gây nhiễu loạn công tác của hội thánh. Danh tiếng và địa vị là điểm yếu của tôi, nếu giờ tôi lại được bầu làm lãnh đạo, rồi tôi bắt đầu ngựa quen đường cũ, theo đuổi danh tiếng và địa vị, lại gây nhiễu loạn công tác của hội thánh thì sao? Nếu việc ác của tôi cứ chồng chất mãi, liệu tôi có bị lên án và đào thải không? Nghĩ như thế, tôi đáp ngay với chị ấy: “Em muốn bầu cho chị, nhưng em đâu hiểu chị. Em phải có trách nhiệm với phiếu bầu của mình. Nếu em bầu một cách tùy tiện, không theo nguyên tắc, rồi bầu lên sai người, thì đấy chính là hành ác”. Tôi cảm thấy nếu không làm lãnh đạo hay người làm công thì an toàn hơn. Bổn phận của tôi hiện giờ chỉ có phạm vi trách nhiệm nhỏ, nên dù tôi có phạm sai lầm, cũng không gây hại nhiều cho công tác của hội thánh. Nhưng làm lãnh đạo thì khác hẳn, bất kỳ sơ suất gì cũng có thể ảnh hưởng công tác tổng thể của hội thánh và gây hại đến mọi anh chị em trong hội thánh. Đấy là việc đại ác. Dù thế nào đi nữa, tôi cũng không muốn làm lãnh đạo. Trong một buổi hội họp, có chị nhờ tôi cho ý kiến về cuộc bầu chọn lãnh đạo. Tôi cảm thấy chị ấy có vẻ muốn bầu cho tôi, nên liền giải thích cho chị ấy rằng: “Tôi không phải là người mưu cầu lẽ thật, lại thiếu lối vào sự sống. Tôi đã từng gây tổn hại công tác của hội thánh vì mưu cầu danh tiếng và địa vị khi làm lãnh đạo”. Tôi còn kể cho chị ấy về sự bại hoại mà tôi đã biểu hiện, nêu ra những thiếu sót và sai lầm của tôi, để khiến chị ấy nghĩ tôi không phải là lãnh đạo tốt.

Sau chuyện đó, tôi thấy hơi có lỗi. Tại sao tôi luôn nhấn mạnh với người khác là tôi không phù hợp làm lãnh đạo? Tại sao tôi không có thái độ tuân phục với kết quả bầu cử? Trong một lần tĩnh nguyện, tôi đã đọc được đoạn lời Đức Chúa Trời này: “Thực ra, mọi người không nên cho rằng đức tin chỉ là niềm tin rằng có một Đức Chúa Trời, và rằng Ngài là lẽ thật, đường đi, sự sống và không còn gì nữa. Đức tin cũng không có nghĩa là chỉ cần ngươi thừa nhận Đức Chúa Trời và tin rằng Ngài là Đấng Cai Trị trên muôn vật, rằng Ngài toàn năng, rằng Ngài tạo ra muôn vật trên thế gian, và rằng Ngài là độc nhất và tối cao. Đức tin không chỉ đơn thuần là vấn đề niềm tin vào sự thật này. Ý muốn của Đức Chúa Trời là toàn bộ con người và tấm lòng của ngươi nên được trao cho Ngài và đầu phục Ngài – nghĩa là, ngươi nên đi theo Đức Chúa Trời, để Đức Chúa Trời sử dụng ngươi và vui mừng khi phục vụ Ngài; ngươi nên làm bất kỳ điều gì ngươi có thể làm cho Ngài(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời khiến tôi xúc động, và tôi nhận ra rằng một người tin Đức Chúa Trời, theo Đức Chúa Trời, thì có thể dâng lòng cho Ngài, tuân phục sự an bài của Ngài và vui vẻ phụng sự Ngài. Dù là họ làm bổn phận gì hay Đức Chúa Trời đối đãi với họ thế nào, họ đều có thể tiếp nhận và tuân phục vô điều kiện, không có chọn lựa và yêu cầu cá nhân gì. Đây mới là lương tâm và lý trí đúng đắn. Nghĩ về bản thân mình, dù tôi có đức tin và làm bổn phận, nhưng tôi luôn đưa ra chọn lựa và yêu cầu cá nhân trong bổn phận, chẳng tuân phục Đức Chúa Trời. Tôi luôn nghĩ rằng vì lãnh đạo thì làm nhiều việc hơn nên sẽ bị phơi bày nhanh hơn, rồi khi phạm sai lầm và gây nhiễu loạn công tác của hội thánh, thì tiền đồ và vận mệnh của họ sẽ lâm nguy, nên tôi không muốn làm lãnh đạo hay người làm công. Tôi đã cố nghĩ ra đủ cách để trốn tránh chuyện được bầu lên, cố ý nói cho người khác biết những vấn đề và lỗi lầm của mình vì tôi sợ mình sẽ được bầu. Rồi tôi nhận ra rằng, bấy lâu nay tôi đã đề phòng Đức Chúa Trời, hiểu lầm Ngài, hoàn toàn không tuân phục. Tôi mới nghĩ đến thái độ của ông Nô-ê đối với sự ủy thác của Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời lệnh cho ông xây tàu, ông đâu có nghĩ đến chuyện được mất của bản thân, cũng không nghĩ đến chuyện nếu ông đóng tàu xong, Đức Chúa Trời có cho ông dùng tàu này để tránh đại hồng thủy không. Ông cứ thế lao mình vào đóng tàu theo lệnh Đức Chúa Trời. Nô-ê thực sự tuân phục và quan tâm Đức Chúa Trời, còn tôi thì có tin Ngài và làm bổn phận chỉ vì tiền đồ và vận mệnh bản thân. Tôi luôn nghĩ xem mình có được phước lành hay không, chức chẳng hề quan tâm ý muốn của Đức Chúa Trời hay công tác của hội thánh. Tôi muốn làm bất kỳ bổn phận nào không phải chịu trách nhiệm. Còn bổn phận nào phải hy sinh và chịu trách nhiệm, thì tôi làm đủ mọi cách để trốn tránh. Tôi chẳng hề quan tâm ý muốn hay yêu cầu của Đức Chúa Trời, mà chỉ muốn hưởng phước lành của Ngài. Đây là dạng đức tin gì vậy? Tôi chỉ đang lợi dụng Đức Chúa Trời, lừa dối Ngài. Tôi chẳng hề tuân phục hay tận hiến gì. Khi nhận ra điều này, tôi đã cầu nguyện, “Lạy Đức Chúa Trời, khi làm bổn phận, con đã có động cơ không đúng, con làm không phải mưu cầu lẽ thật và tuân phục Ngài, mà là để trao đổi lấy đích đến tốt đẹp, chứ chẳng hề nghĩ đến tâm ý của Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, con không muốn lừa dối Ngài như thế nữa. Con muốn ăn năn. Dù con được sắp đặt làm bổn phận gì, con cũng tiếp nhận và tuân phục”.

Cuối cùng, tôi lại được bầu lên làm lãnh đạo hội thánh. Tôi biết rằng cơ hội tiếp tục thực hành vai trò lãnh đạo này chính là ân điển của Đức Chúa Trời, nhưng tôi vẫn còn vài lo ngại. Là lãnh đạo hội thánh, nếu tôi lại mưu cầu danh tiếng và địa vị như trước đây và gây nhiễu loạn công tác của hội thánh, liệu tôi có bị phơi bày và đào thải? Tôi vẫn còn ngần ngại không muốn làm lãnh đạo, nhưng từ chối bổn phận là bội nghịch Đức Chúa Trời. Vậy nên tôi đành tuân phục.

Chẳng bao lâu sau, vì quá nhiều người gia nhập hội thánh, nên chúng tôi cần một trưởng nhóm phụ trách công tác chăm tưới. Các anh chị em đã đề xuất vài ứng viên. Cộng sự của tôi thì đang bận xử lý việc khác, nên chị ấy bảo tôi lo việc xem xét bản đánh giá các anh chị em tiềm năng. Tôi đã nghĩ bụng: “Néu mình xem xét các bản đánh giá trước, thì mình phải cho ý kiến trước. Lỡ mình nhầm gì đó và chọn sai người, rồi từ đó gây đình trệ công tác chăm tưới thì sao? Dù cuối cùng mình sẽ thảo luận và quyết định cùng chị cộng sự, nhưng nếu mình là người nêu ý kiến trước thì sẽ là người chịu trách nhiệm. Nếu vi phạm của mình cứ chồng chất, thì mình sẽ không có kết cục và đích đến tốt đẹp”. Nghĩ như thế khiến tôi thấy lo sợ và không muốn là người phát biểu quan điểm trước. Tôi nhận ra tình trạng mình không ổn, thấy mình đang hiểu lầm và đề phòng Đức Chúa Trời, nhưng tôi chẳng thoát ra được. Vậy là tôi mở lòng với các anh chị em và tìm kiếm thông công. Một chị bảo tôi rằng: “Nếu chị muốn giải quyết sự hiểu lầm và đề phòng với Đức Chúa Trời, chị phải nghĩ xem quan niệm sai lầm dẫn tới chuyện này”. Lời chị ấy nói đã cho tôi phương hướng để hiểu vấn đề. Tôi đã cầu nguyện và tìm kiếm với Đức Chúa Trời, đọc thêm những lời Đức Chúa Trời có liên quan.

Một hôm nọ, tôi đọc được hai đoạn lời Đức Chúa Trời. “Một số người tin Đức Chúa Trời được vài năm nhưng không hiểu một chút lẽ thật nào. Cách nhìn của họ về mọi thứ vẫn giống y như cách nhìn của những người ngoại đạo. Khi họ thấy một lãnh đạo giả hoặc kẻ địch lại Đấng Christ bị vạch trần và bị đào thải, họ nghĩ: ‘Tin Đức Chúa Trời, đi theo Đức Chúa Trời, sống trước mặt Đức Chúa Trời – tất cả như bước đi trên lớp băng mỏng! Điều này giống như ngồi trên đống lửa vậy!’. Còn người khác thì nói: ‘Phụng sự Đức Chúa Trời – người ta bảo “ở cùng một vị vua cũng giống như ở cùng với cọp vậy”. Nói sai một lời, làm sai một việc, thế là ta xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời, và ta sẽ bị đào thải và bị trừng phạt!’. Những nhận xét này có đúng không? ‘Bước đi trên lớp băng mỏng’ và ‘ngồi trên đống lửa’ – những điều này có nghĩa là gì? Chúng có nghĩa là rất nguy hiểm, rằng mọi thời điểm đều rất nguy hiểm, mà chỉ cần một chút bất cẩn nhỏ nhất, người ta sẽ hụt chân ngay. ‘Ở cùng một vị vua cũng giống như ở cùng với cọp’ là câu nói phổ biến của những người ngoại đạo. Điều này có nghĩa là sống bên cạnh một quỷ vương thì rất nguy hiểm. Nếu một người áp dụng câu nói này cho việc phụng sự Đức Chúa Trời, thì họ sai ở đâu? So sánh một quỷ vương với Đức Chúa Trời, với Chúa của tạo vật – chẳng phải đây là báng bổ Đức Chúa Trời sao? Đó là một vấn đề nghiêm trọng. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời công chính và thánh khiết; việc con người phải bị trừng phạt vì chống đối Đức Chúa Trời hoặc thù nghịch với Ngài là chính đáng và phải đạo. Quỷ Sa-tan không có chút lẽ thật nào; nó nhơ bẩn và tà ác, tàn sát người vô tội, ăn tươi nuốt sống người tốt. Làm sao nó có thể được ví với Đức Chúa Trời? Tại sao người ta bóp méo sự thật và bôi nhọ Đức Chúa Trời? Đây là sự báng bổ Ngài khủng khiếp! Khi một số người thường xuyên tiêu cực và không chân thành thực hiện bổn phận của mình bị tỉa sửa và xử lý, họ lo rằng họ sẽ bị đào thải, và họ thường thầm nghĩ: ‘Tin Đức Chúa Trời thật sự là bước đi trên lớp băng mỏng! Ngay khi ta làm sai điều gì đó, ta sẽ bị xử lý; ngay khi ta bị gán mác là một lãnh đạo giả hoặc kẻ địch lại Đấng Christ, ta sẽ bị thay thế và đào thải. Trong nhà Đức Chúa Trời, không có gì lạ khi Đức Chúa Trời nổi giận, và khi người ta đã làm điều xấu, họ sẽ lập tức bị loại bỏ. Nhà của Đức Chúa Trời thậm chí không cho họ cơ hội để ăn năn’. Thực tế có phải thật sự như vậy không? Nhà Đức Chúa Trời không cho người ta cơ hội ăn năn sao? (Điều này sai.) Những kẻ tà ác và những kẻ địch lại Đấng Christ đó chỉ bị đào thải bởi vì họ đã trải qua sự tỉa sửa và xử lý vì nhiều sự tà ác của họ, ấy thế mà bất chấp những lời khuyên nhủ lặp đi lặp lại, họ vẫn không thay đổi cách thức của mình. Vấn đề của những người nghĩ theo cách này là gì? Họ chỉ đơn thuần đưa ra những lời biện minh cho chính họ. Họ không mưu cầu lẽ thật, cũng không dâng sự phục vụ đúng cách, và bởi vì họ sợ bị thanh trừ và bị đào thải nên họ than oán chua cay và gieo rắc các quan niệm. Rõ ràng, họ có nhân tính kém, họ thường bất cẩn và chiếu lệ, tiêu cực và chểnh mảng trong công việc. Họ sợ bị vạch trần và bị loại bỏ, vì vậy họ đổ hết lỗi cho hội thánh và cho Đức Chúa Trời. Bản chất ở đây là gì? Đó là bản chất xét đoán Đức Chúa Trời, oán giận với Ngài, chống đối Ngài. Những nhận xét này là những lời ngụy biện rõ ràng nhất và những tuyên bố vô lý nhất(Chỉ có thể có được sự tự do và giải thoát bằng cách loại bỏ tâm tính bại hoại, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Sau khi bị bỏ ra, một số lãnh đạo và người làm công đã truyền bá những quan niệm rằng: ‘Đừng làm lãnh đạo, và đừng để bản thân sa vào địa vị. Con người gặp nguy hiểm ngay giây phút họ có địa vị, và Đức Chúa Trời sẽ phơi bày họ! Một khi đã bị phơi bày, thì đến tư cách làm một tín hữu bình thường họ cũng chẳng có, và sẽ chẳng hề nhận được phước lành’. Điều này nghĩa là gì? Nói nhẹ thì đây là một sự hiểu lầm về Đức Chúa Trời; nói nặng thì đây là sự báng bổ đối với Đức Chúa Trời(Làm thế nào để giải quyết những cám dỗ và ràng buộc của địa vị, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời của Đức Chúa Trời đã phơi bày chính xác tình trạng của tôi. Quan điểm lố bịch của này đã điều khiển đời tôi Tôi đã hình dung Đức Chúa Trời như một người cai trị, và làm lãnh đạo hay người làm công thì “làm bạn với vua như chơi với hổ”. Tôi nghĩ nếu người ta phạm sơ sót hay sai lầm rất nhỏ, thì Đức Chúa Trời sẽ kết án người đó, vạch trần và đào thải họ bất kỳ lúc nào. Tôi sống theo tư tưởng đó và hiểu lầm Đức Chúa Trời từ khi bị cách chức. Tôi nghĩ rằng, khi làm lãnh đạo thì leo càng cao ngã càng đau, và chính vì thế mà tôi bị vạch trần. Chính bởi vì quan điểm sai lầm đó, nghĩ rằng tôi biết công tác của hội thánh rất cần người gánh trách nhiệm, nên tôi cứ trốn tránh chuyện bầu chọn, sợ nếu được chọn làm lãnh đạo rồi tôi phạm sai lầm thì sẽ không có kết cục tốt đẹp. Khi được bầu làm lãnh đạo rồi, thay vì cảm tạ ân điển của Đức Chúa Trời, tôi lại cảm thấy như mình đang đi trên dao, phải đặc biệt cẩn trọng, lỡ như rơi xuống thì tôi sẽ mất cơ hội thực hành đức tin, chuyện được cứu rỗi lại càng xa vời. Tôi đã luôn đề phòng Đức Chúa Trời, rất dè dặt trong bổn phận. Khi phải chọn ra trưởng nhóm chăm tưới, tôi đã không dám bày tỏ ý kiến, sợ rằng mình sẽ nói sai gì đó và phải gánh trách nhiệm. Tôi thấy mình đã hiểu lầm Đức Chúa Trời quá đỗi. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, tâm tính của Ngài là thánh khiết và công chính, Ngài đối xử với con người có nguyên tắc. Nếu Đức Chúa Trời lên án hay đào thải ai, thì luôn căn cứ vào thái độ của người đó với Ngài và với lẽ thật. Tôi nghĩ đến dân thành Niniveh, việc ác họ làm khiến Đức Chúa Trời khinh ghét, nên Ngài quyết định tiêu diệt họ. Nhưng khi họ nghe ông Giôna truyền lại lời Đức Chúa Trời, thì ai nấy đều lấy bao tải mà mặc, rắc tro lên người, thú tội và ăn năn. Họ đã từ bỏ việc ác mình làm, rời khỏi con đường tà ác. Thấy họ thành tâm ăn năn, Đức Chúa Trời đã thay đổi thái độ với họ và cuối cùng không tiêu diệt họ nữa. Dân thành Sô-đôm cũng đầy tà ác như vậy, nhưng họ ngoan cố, không chịu ăn năn. Khi thấy hai sứ giả được Đức Chúa Trời phái đến, dân trong thành đã muốn hại họ. Dân thành này ghét Đức Chúa Trời và kiên quyết chống lại Ngài, nên họ đã bị Đức Chúa Trời rủa sả và trừng phạt. Từ thái độ khác nhau của Đức Chúa Trời đối với dân của hai thành này, có thể thấy được rằng khi người ta hành ác và vi phạm, nhưng nếu thành tâm ăn năn, thì Đức Chúa Trời sẽ cho họ cơ hội. Còn với những ai ghét lẽ thật, chống đối Đức Chúa Trời, không chịu ăn năn, thì Đức Chúa Trời sẽ kết án và trừng phạt họ. Rồi tôi nghĩ về bản thân mình, vì tâm tính Sa-tan mà tôi đã bỏ bê bổn phận, mưu cầu danh tiếng và địa vị, gây nhiễu loạn công tác của hội thánh. Hành vi của tôi khiến Đức Chúa Trời khinh ghét, nên tôi đã mất công tác của Đức Thánh Linh, bị tước vai trò lãnh đạo. Tuy vậy, Đức Chúa Trời đâu có đào thải tôi. Khi tôi phản tỉnh và biết mình, nguyện ý ăn năn với Ngài, thì Ngài cho tôi thêm cơ hội làm lãnh đạo để tôi có thể thực hành cho đủ, học biết thêm lẽ thật, và tiến bộ nhanh chóng hơn. Chẳng phải đây đều là tình yêu và lòng thương xót của Đức Chúa Trời dành cho tôi sao? Nhưng tôi chẳng hiểu được ý định tha thiết của Ngài. Tôi cứ luôn đoán già đoán non, đề phòng Đức Chúa Trời, gian xảo và tà ác. Tôi nghĩ làm lãnh đạo sẽ khiến tôi bị phơi bày và đào thải. Tôi thật sự chẳng biết Đức Chúa Trời! Thái độ của tôi với Đức Chúa Trời mà là tin Ngài sao? Tôi đã miệt thị, báng bổ Đức Chúa Trời, xúc phạm tâm tính của Ngài!

Điều này khiến tôi nhớ đến những lời của Đức Chúa Trời: “Nếu ngươi giả dối, khi ấy ngươi sẽ phòng thủ và hoài nghi mọi người và mọi sự, và do đó, đức tin của ngươi ở Ta sẽ được xây dựng trên nền tảng của sự hoài nghi. Ta không bao giờ có thể công nhận đức tin ấy. Thiếu đức tin thật, ngươi càng không có tình yêu đích thực(Làm thế nào để biết Đức Chúa Trời trên trần gian, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Suy ngẫm những lời này, tôi nhận ra mình gian xảo và tà ác từ bản tính. Tôi tin và theo Đức Chúa Trời hoàn toàn là vì phước lành cho bản thân. Tôi chẳng thật sự tin hay yêu kính Đức Chúa Trời, tôi chẳng thật tâm chút nào. Vì sự ranh mãnh của mình, tôi nghi ngờ và đề phòng Đức Chúa Trời trong mọi sự, sợ mình mắc sai lầm rồi sẽ bị vạch trần và đào thải. Đức Chúa Trời tuyệt đối không chấp thuận loại đức tin như thế này. Nó chỉ có thể khiến Ngài khinh và ghét. Nghĩ thế, lòng tôi thấy vô cùng tội lỗi và bất an, tôi chỉ muốn ăn năn mà thôi. Sau đó, tôi đã đọc được đoạn này trong lời Đức Chúa Trời. “Với bản tính Sa-tan, một khi con người đạt được địa vị thì họ sẽ gặp nguy hiểm. Vậy, cần phải làm gì? Họ không có con đường nào để đi theo sao? Một khi họ đã rơi vào tình thế nguy hiểm đó, có phải là không còn đường lui cho họ không? Nói Ta biết, vào lúc những con người bại hoại đạt được địa vị – bất kể họ là ai – thì sau đó họ có trở thành kẻ địch lại Đấng Christ không? Điều này có tuyệt đối không? (Nếu họ không theo đuổi lẽ thật thì sẽ trở thành kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng nếu họ có theo đuổi lẽ thật thì sẽ không như vậy.) Điều đó là tuyệt đối đúng: nếu người ta không theo đuổi lẽ thật, họ chắc chắn trở thành những kẻ địch lại Đấng Christ. Và có phải là tất cả những ai bước đi con đường của những kẻ địch lại Đấng Christ đều làm như vậy vì địa vị? Không, chủ yếu là vì họ không có tình yêu với lẽ thật, bởi vì họ không đúng. Bất kể họ có địa vị hay không, những người không theo đuổi lẽ thật đều bước đi con đường của những kẻ địch lại Đấng Christ. Cho dù họ đã nghe bao nhiêu bài giảng, thì những người như vậy cũng không tiếp nhận lẽ thật, họ không bước đi con đường đúng đắn, và do đó chắc chắn bước đi con đường quanh co. Điều này cũng tương tự như người ta ăn cơm vậy. Một số người không ăn thực phẩm có thể bồi bổ sức khoẻ, duy trì cuộc sống bình thường, mà cứ nhất quyết ăn những thứ có hại, cuối cùng tự đào hố chôn mình. Chẳng phải đây là lựa chọn của chính họ sao?(Làm thế nào để giải quyết những cám dỗ và ràng buộc của địa vị, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ từ lời Đức Chúa Trời, tôi biết được rằng người ta đâu bị vạch trần và phơi bày khi trở thành lãnh đạo và người làm công, và có địa vị đâu khiến ta càng dễ bị lên án. Việc người ta được cứu rỗi hay bị đào thải trong đức tin hoàn toàn tùy thuộc vào sự mưu cầu và con đường của họ. Nếu họ thật tâm yêu mến lẽ thật, thì họ có thể mưu cầu lẽ thật và có nguyên tắc khi làm lãnh đạo và người làm công. Khi họ vi phạm, nếu họ biết phản tỉnh và tiếp thu sau khi được tỉa sửa và xử lý, thì không những họ không bị đào thải, mà họ còn dần học biết lẽ thật, loại bỏ tâm tính bại hoại và cuối cùng được cứu rỗi. Tôi nghĩ về một vài lãnh đạo tôi từng tiếp xúc. Dù họ có thể hiện sự bại hoại và có vi phạm, nhưng khi họ thất bại và vấp ngã, hoặc khi bị xử lý và tỉa sửa, họ có thể phản tỉnh bản thân, ăn năn với Đức Chúa Trời và hành động theo nguyên tắc. Họ không những không bị lên án hay đào thải, mà qua những trải nghiệm đó, họ có thể dần hiểu lẽ thật và trưởng thành trong sự sống. Lúc đó, tôi bỗng thấy rõ ràng rằng đâu phải vì làm lãnh đạo mà người ta bị phơi bày, đào thải, lên án hoặc không thể được cứu rỗi. Việc tôi có thể kiên vững và đạt được ơn cứu rỗi hay không tùy thuộc vào chuyện tôi có mưu cầu lẽ thật trong bổn phận và có tập trung giải quyết các tâm tính bại hoại của mình hay không. Tôi nhớ lại trước đây, khi tôi luôn mưu cầu danh tiếng và địa vị, ghen tị và bài xích cộng sự của mình, không làm việc hòa thuận với chị ấy. Tôi đã gây nhiễu loạn công tác của hội thánh, không biết ăn năn và cuối cùng bị cách chức. Thất bại của tôi là vì tôi đã không mưu cầu lẽ thật, vì tôi mù quáng mưu cầu danh tiếng và địa vị, đi theo đường sai trái, chứ đâu phải vì tôi là lãnh đạo. Rồi tôi nhận ra rằng khi ta thấy sự bại hoại của mình, thì tiêu cực và đề phòng đâu thể giải quyết được vấn đề. Điều quan trọng nhất là mưu cầu lẽ thật và tập trung tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề. Dù tôi đã quá chìm đắm trong danh tiếng và địa vị nên nó sẽ thể hiện ra khi tôi làm lãnh đạo, nhưng miễn là tôi có thể tiếp nhận lẽ thật, từ bỏ xác thịt và thực hành lẽ thật, thì tâm tính bại hoại của tôi có thể thay đổi được đôi chút. Nếu tôi không mưu cầu lẽ thật mà cứ sống theo tâm tính bại hoại của mình, thì dù tôi làm bổn phận gì, tôi cũng có thể gây nhiễu loạn bất kỳ lúc nào, khiến Đức Chúa Trời khinh ghét, khiến tôi bị vạch trần và đào thải. Tôi nghĩ về chuyện lần này tôi làm lãnh đạo. Dù đã gặp phải nhiều vấn đề và khó khăn, dù tôi đã thể hiện nhiều sự bại hoại, đã bị tỉa sửa và xử lý, nhưng tôi đã biết được đôi điều về tâm tính bại hoại của mình. Tôi đã bất tri bất giác hiểu ra nhiều vấn đề mơ hồ thông qua việc tìm kiếm nguyên tắc của lẽ thật, và từ đó bù đắp lại cho những thiếu sót của tôi. Những thu hoạch thực tế này đến từ thời gian tôi làm lãnh đạo. và đây chính là ân điển Đức Chúa Trời dành cho tôi. Tôi không muốn tiếp tục phản nghịch Đức Chúa Trời và trốn tránh bổn phận nữa. Tôi thề nguyện là mình sẽ trân quý bổn phận này, toàn tâm toàn ý với nó và đền đáp tình yêu của Đức Chúa Trời.

Sau đó, tôi nghĩ đến một đoạn lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Một số người đã phạm một vi phạm nhỏ thắc mắc rằng: ‘Có phải Đức Chúa Trời đã vạch trần tôi và bỏ tôi ra? Ngài sẽ hạ gục tôi chứ?’. Lần này, Đức Chúa Trời đến làm công tác không phải để trừng phạt con người, mà là để cứu họ nhiều nhất có thể. Ai hoàn toàn không mắc lỗi? Nếu mọi người đều bị hạ gục, thì làm sao có thể là ‘cứu rỗi’ được? Một số vi phạm được thực hiện có chủ đích, một số khác thì được thực hiện một cách không tự nguyện. Nếu ngươi có thể thay đổi sau khi nhận ra những vi phạm mà mình mắc phải một cách không tự nguyện, liệu Đức Chúa Trời có hạ gục ngươi trước khi ngươi thay đổi không? Đức Chúa Trời có thể cứu rỗi con người theo cách đó không? Đó không phải là cách Ngài làm việc! Dù ngươi có tâm tính phản nghịch hay ngươi đã hành động không chủ ý hay không, hãy nhớ điều này: ngươi nên phản tỉnh và biết mình. Hãy quay đầu lại, ngay lập tức, và phấn đấu đạt được lẽ thật bằng hết sức mình – và, dù hoàn cảnh nào xảy ra thì cũng đừng để bản thân tuyệt vọng. Công tác mà Đức Chúa Trời đang làm là công tác cứu rỗi, và Ngài sẽ không tùy tiện hạ gục những người Ngài muốn cứu rỗi. Điều này là chắc chắn. Ngay cả khi thực sự có một người tin Đức Chúa Trời mà cuối cùng Ngài đã đánh gục, thì việc làm đó của Đức Chúa Trời vẫn sẽ được bảo đảm là công chính. Theo thời gian, Ngài sẽ cho ngươi biết lý do Ngài đánh gục người đó, để ngươi hoàn toàn bị thuyết phục. Ngay bây giờ, các ngươi nên quan tâm về việc phấn đấu cho lẽ thật, tập trung vào việc bước vào sự sống, và cố gắng thực hiện bổn phận của mình một cách đúng đắn. Không có sai lầm trong việc này! Sau hết, cho dù Đức Chúa Trời đối xử với ngươi thế nào thì điều đó cũng luôn là công chính; ngươi không nên hoài nghi điều này và ngươi không cần lo lắng. Ngay cả khi ngươi không thể hiểu sự công chính của Đức Chúa Trời vào lúc này thì sẽ đến một ngày ngươi sẽ bị thuyết phục. Đức Chúa Trời làm công tác của Ngài trong sự sáng và công bình; Ngài công khai về mọi thứ. Nếu các ngươi suy ngẫm kỹ càng về chủ đề này, các ngươi sẽ đi đến kết luận rằng công tác của Đức Chúa Trời là cứu rỗi con người và biến cải tâm tính của họ. Vì rằng công tác của Đức Chúa Trời là biến cải tâm tính của con người nên không thể nào con người không có những sự bộc phát bại hoại. Chỉ trong sự bộc phát tâm tính bại hoại của mình thì người ta mới có thể biết mình, và thừa nhận họ có tâm tính bại hoại, và sẵn lòng nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Nếu sau khi tuôn ra tâm tính bại hoại, người ta không tiếp nhận chút lẽ thật nào và tiếp tục sống theo tâm tính bại hoại của mình, thì họ sẽ có khả năng xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ thực hiện những mức độ báo ứng khác nhau trên họ, và họ sẽ trả giá cho những vi phạm của mình. Thỉnh thoảng, ngươi trở nên phóng đãng một cách vô thức, và Đức Chúa Trời chỉ ra điều đó cho ngươi, tỉa sửa ngươi, và xử lý ngươi. Nếu ngươi thay đổi tốt hơn, Đức Chúa Trời sẽ không bắt ngươi chịu trách nhiệm. Đây là quá trình bình thường của một sự biến cải tâm tính, và ý nghĩa thật của công tác cứu rỗi được thể hiện trong quá trình này. Đây là điều then chốt(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ đoạn đó, tôi đã hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt, xuất hiện và công tác vào thời kỳ sau rốt để làm tinh sạch và biến đổi tâm tính bai hoại của chúng ta. Đức Chúa Trời cứu rỗi con người hết sức có thể. Ngài không lên án bất kỳ ai chỉ vì họ biểu hiện vài sự bại hoại hoặc vi phạm nhất thời. Ngài nhìn xem họ có thật sự ăn năn và thay đổi sau khi biểu hiện sự bại hoại không. Vì chúng ta đều có tâm tính bại hoại, nên chúng ta thường không kìm nổi những hành động phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời, không kìm nổi vi phạm. Nhưng nếu sau đó, chúng ta ăn năn và làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ cho chúng ta cơ hội ăn năn. Từ khi có đức tin và đảm nhận bổn phận, vì tâm tính kiêu ngạo, tôi không kìm nổi việc chạy theo danh tiếng và địa vị. Tôi đã làm vài việc gây nhiễu loạn, gây hại đến công tác của hội thánh. Nhưng Đức Chúa Trời không lên án tôi vì những vi phạm của tôi. Khi tôi đã hiểu ra phần nào về con đường mưu cầu danh tiếng và địa vị sai lầm của mình, và muốn ăn năn, thì Đức Chúa Trời thương xót tôi, khai sáng cho tôi bằng lời Ngài, cho phép tôi hiểu ra lẽ thật và nhận ra tâm tính bại hoại của mình, để tôi có thể rút ra bài học từ thất bại, tìm kiếm lẽ thật và giải quyết những vi phạm của mình. Nhận ra điều này khiến tôi thấy được Đức Chúa Trời tha thiết muốn cứu rỗi nhân loại. Ngài biết rõ Sa-tan đã làm bại hoại chúng ta thế nào, và bản tính Sa-tan đã bám rễ trong chúng ta đến đâu, và chính nó thường khiến chúng ta làm những việc phản nghịch và đối đầu với Đức Chúa Trời. Nhưng miễn là chúng ta có thể ăn năn và làm theo lời Ngài, thì Ngài sẽ không lên án chúng ta. Ngài sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta, cho phép chúng ta hiểu ra lẽ thật, loại bỏ những sự kìm kẹp và xiềng xích của tâm tính bại hoại. Khi đã hiểu được những điều này, tôi đã hết hiểu lầm Đức Chúa Trời, và không còn cảnh giác quá đáng trong bổn phận nữa. Khi tôi có sơ sót hay lỗi lầm trong công tác, tôi đã có thể đối diện với chúng, tìm kiếm lẽ thật và nhanh chóng sửa đổi. Thực hiện bổn phận như thế thật tự do thoải mái.

Sau đó, lãnh đạo cấp trên chỉ định tôi phụ trách một công tác rất quan trọng. Tôi mà làm sai thì phải gánh trách nhiệm rất nặng nề, và dù phải thảo luận và quyết định công tác này cùng với các anh chị em khác, nhưng nếu quyết định đó có vấn đề và công tác của hội thánh bị gián đoạn, thì tôi sẽ gánh trách nhiệm chính vì là người phụ trách. Nghĩ như thế, tôi không muốn đảm nhận công tác này nữa. Rồi tôi nghĩ đến lời Đức Chúa Trời: “Có một số người nói: ‘Tố chất của tôi kém, tôi không được học hành đến nơi đến chốn, tôi bất tài và có những khiếm khuyết trong tính cách. Tôi luôn gặp khó khăn trong việc thực hiện bổn phận của mình. Nếu tôi làm tệ và bị thay thế, khi đó tôi sẽ làm gì?’. Ngươi sợ điều gì? Công việc đó có phải là điều ngươi có thể tự mình hoàn thành không? Ngươi chỉ đang đảm nhận một vai trò, không được yêu cầu đảm nhận toàn bộ công việc. Nếu ngươi nhận làm những gì là việc của mình, thế là đủ. Chẳng phải khi đó ngươi đã làm tròn trách nhiệm của mình sao? Thật là một vấn đề đơn giản – ngươi luôn suy đoán về điều gì chứ? Nếu ngươi thần hồn nát thần tính, và suy nghĩ đầu tiên của ngươi là làm thế nào để thoát được, thì chẳng phải là ngươi chẳng ra gì sao? Chẳng ra gì là gì? Đó là một người không nghĩ đến sự tiến bộ của họ và không sẵn lòng cống hiến hết mình, người luôn nghĩ đến việc vơ vét thức ăn và mong muốn bản thân được hưởng thụ. Một người như vậy là rác rưởi. Một số người có phạm vi hạn hẹp như vậy – có một cách để mô tả họ. Đó là gì? (Tính cách cực kỳ nhỏ mọn.) Những người có tính cách cực kỳ nhỏ mọn là những kẻ đê hèn. Tất cả những kẻ đê hèn dùng lòng của chính họ để đo lường những người tốt hơn họ; đối với họ, mọi người dường như đều ích kỷ và xấu tính như họ. Một người như vậy là chẳng ra gì. Họ có thể tin Đức Chúa Trời, nhưng họ sẽ không dễ dàng tiếp nhận lẽ thật. Điều gì khiến người ta có quá ít đức tin? Nó là do sự thiếu hiểu biết về lẽ thật. Nếu ngươi không hiểu đủ lẽ thật, và sự hiểu biết của ngươi quá nông cạn, điều đó sẽ không đủ để giúp ngươi hiểu biết về mọi dự án mà Đức Chúa Trời thực hiện trong công tác của Ngài, hoặc về mọi việc Ngài làm, hoặc về tất cả các yêu cầu của Ngài đối với ngươi. Nếu ngươi không thể đạt được sự hiểu biết đó, ngươi sẽ nảy sinh đủ loại phỏng đoán, tưởng tượng, hiểu lầm và quan niệm về Đức Chúa Trời. Và nếu đây là tất cả những gì ngươi có trong lòng, liệu ngươi có thể có đức tin thật nơi Đức Chúa Trời không?(Mục 7. Họ tà ác, quỷ quyệt và giả dối (Phần 2), Lời, Quyển 4 – Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). Lời Đức Chúa Trời khiến tôi thấy ra rằng tôi lại một lần nữa ức đoán và đề phòng Đức Chúa Trời. Tôi sợ phải gánh trách nhiệm nếu công tác này có vấn đề gì, sợ nó sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ của tôi, nên tôi muốn trốn tránh nó. Tôi đã thấy tâm tính của tôi gian xảo đến thế nào – tôi chẳng có đức tin chân thật. Tôi không thể tiếp tục hoài nghi Đức Chúa Trời và trốn tránh bổn phận như thế. Dù tôi đã có nhiều lỗi phạm và không có nhiều thực tế của lẽ thật, nhưng tôi có thể làm việc cùng người khác, học hỏi từ điểm mạnh của họ để bù đắp cho khuyết điểm của tôi, có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật liên quan. Đức Chúa Trời thật sự đâu có yêu cầu nhiều nơi con người. Chỉ cần tôi dốc hết sức, thì tôi biết Đức Chúa Trời sẽ hướng dẫn tôi, và bất kỳ vấn đề nào tôi gặp sẽ dần được giải quyết. Nghĩ như thế, tôi vui mừng nhận việc.

Nghĩ lại trước đây, tôi sống trong các quan niệm và hiểu lầm, luôn ức đoán và đề phòng Đức Chúa Trời, hoàn toàn không tuân phục Ngài, nhưng Ngài đâu có vì thế mà từ bỏ việc cứu rỗi tôi. Thay vào đó, Ngài tiếp tục khai sáng và hướng dẫn tôi bằng lời Ngài, để tôi hiểu được ý muốn cứu rỗi con người của Ngài, và thấy được tâm tính tà ác gian xảo của mình, loạt bỏ được sự hiểu lầm đối với Ngài và có quyết tâm mưu cầu lẽ thật và làm thỏa lòng Ngài. Tôi đã đích thân cảm nhận được tâm tính của Đức Chúa Trời công chính ra sao và tình yêu Ngài danh cho con người thật đến thế nào. Từ giờ tôi chỉ muốn tập trung mưu cầu lẽ thật trong bổn phận, và làm tròn bổn phận để đền đáp tình yêu của Đức Chúa Trời.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Sau những lời nói dối

Bởi Trần Thực, Trung Quốc Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Các ngươi nên biết rằng Đức Chúa Trời thích những người trung thực. Về thực...

Giải phóng khỏi danh lợi

Bởi Tiếu Mẫn, Trung Quốc Trước khi trở thành một tín hữu, tôi luôn theo đuổi công danh và địa vị, tôi sẽ đố kị và khó chịu nếu ai đó vượt...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger